Nếu
Phật tử tu vừa tụng kinh, vừa niệm Phật, vừa trì chú, vừa tọa thiền thì quá
nhiều. Phật bảo: “Chúng sanh có nhiều phiền não nên Phật cũng có nhiều pháp môn
để đối trị.” Cho nên mỗi một phương pháp tu là thích ứng với mỗi căn cơ, mỗi
bệnh của chúng sanh. Ai thích hợp với pháp môn nào thì tu pháp môn ấy, tu một
cách triệt để cũng đạt đến kết quả viên mãn. Không nhất thiết tu một lượt hai
ba pháp môn, mà chẳng pháp nào ra pháp nào, rốt cuộc không có kết quả gì.
Tại sao chúng ta phải tụng kinh? Khi nói tới tụng kinh, nên biết có hai ý nghĩa
quan trọng. Ý nghĩa thứ nhất, tụng kinh là để nghe nhớ lời Phật dạy, ứng dụng
tu hành. Ý nghĩa thứ hai, tụng kinh cốt làm sao cho tâm mình không xao động,
không chạy theo ngoại cảnh như lúc bình thường. Cho nên khi tụng kinh bắt buộc chúng
ta phải chú ý từng lời, từng chữ trong kinh, dồn hết tâm vào kinh, tụng cho
đúng. Vừa tụng vừa nghe tiếng tụng của mình, tâm lắng dịu, tỉnh sáng. Còn vừa
tụng kinh vừa nghĩ chuyện này chuyện nọ là làm mất giá trị của việc tụng kinh.
Tụng kinh đúng pháp, tâm chúng ta từ từ bớt xao xuyến, bớt loạn động. Đó là
hiệu quả của tụng kinh.
Tại
sao Phật tử phải niệm Phật? - Vì muốn về Cực Lạc. Pháp môn này chắc quí Phật tử
đã từng thực hành. Thật ra niệm Phật là một pháp rất thiết yếu đối với người Phật
tử. Phật tử nào đầy đủ lòng tin là Tín, nguyện sanh về Cực Lạc là Nguyện và
luôn luôn niệm Phật là Hạnh. Nói rõ hơn Tín là tin cõi Cực Lạc có thật, tin đức
Phật A-di-đà sẽ đến đón mình. Hạnh là đi đứng nằm ngồi luôn luôn niệm Phật.
Nguyện là khi lâm chung, mong Phật sẽ đến đón chúng ta về Cực Lạc. Có đầy đủ ba
yếu tố Tín, Hạnh, Nguyện thì niệm Phật sẽ đạt được kết quả tốt.
Nhưng
hiện nay Phật tử niệm Nam-mô A-di-đà Phật, mà đã hiểu ý nghĩa câu niệm Phật ấy
chưa? Nhiều người thế gian hơi khó tánh hay giễu cợt: “Ông bà nếu nghe người ta
kêu tên mình hoài chắc giận lắm.” Quí Phật tử nghĩ sao? Niệm Phật là gọi tên
Phật hoài phải không, vậy Ngài có buồn có giận không? Đó là điều rắc rối, nếu
chúng ta không hiểu sẽ không giải quyết được những thắc mắc của người thế gian.
A-di-đà
là danh hiệu Phật, tức tên của Ngài. Khi chúng ta niệm Phật là niệm Nam-mô
A-di-đà Phật. Chữ Nam-mô nghĩa là cung kính. Nam-mô A-di-đà Phật là cung kính đức
Phật A-di-đà. Nhiều Phật tử đơn giản quá cứ A-di-đà Phật thôi, đó là gọi tên mà
không nói lời cung kính. Còn chúng ta xưng danh hiệu Ngài với lòng cung kính
qui ngưỡng thì không có lỗi. Phật tử cần nên biết điều này để có ai thắc mắc
hỏi, chúng ta giải đáp rõ ràng.
Câu
hỏi kế, chúng ta niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà để Ngài đón mình về Cực Lạc
hay để làm gì? Kinh A-di-đà nói rõ quá, người niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà
từ một ngày cho tới bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì sẽ thấy đức Phật hiện tiền.
Như vậy mục đích Phật dạy niệm danh hiệu đức A-di-đà, trước hết là để chúng ta
nhất tâm bất loạn. Mà nhất tâm là vô niệm, vì không còn một niệm tạp loạn nào.
Nên nói niệm đến chỗ vô niệm, tức là chúng ta niệm Phật tới khi tâm không còn
dấy niệm. Chỉ một tâm hoàn toàn tri giác không dấy động, gọi là nhất tâm. Bấy
giờ nhắm mắt đức Phật A-di-đà và chư Thánh chúng sẽ hiện ở trước.
Chúng
ta thấy ý nghĩa tu hành quá rõ ràng. Dùng câu niệm Phật với lòng cung kính,
quên hết chuyện thế gian, chỉ nhớ Phật thôi. Nhớ cho tới bao giờ câu niệm Phật lặng,
chỉ còn một tâm thanh tịnh, lúc đó thấy Phật A-di-đà ở trước mắt. Hình ảnh này
nói lên điều gì? Chúng ta tu là để lặng tâm lăng xăng điên đảo hằng ngày của
mình. Muốn lặng tâm đó phải tin tuyệt đối vào đức Phật, dốc lòng niệm danh hiệu
Phật càng ngày càng miên mật. Cho tới bao giờ được nhất tâm tức là vô niệm thì
Phật Di-đà hiện ở trước, không nghi ngờ gì hết.
Quí
Phật tử niệm Phật tới chỗ miên mật chưa? - Chưa. Vậy mà đòi Phật đón mình, lỡ
Ngài quên không đón thì sao? Tại mình tu chưa đến nơi đến chốn nên không có kết
quả, chớ không phải tại Phật quên. Người nào niệm Phật đến nơi đến chốn cũng
đều có kết quả tốt. Tôi kể câu chuyện có thật để quí Phật tử, nhất là các Phật
tử lớn tuổi cố gắng niệm Phật miên mật.
Bà
thân của thầy chúng tôi có nhiều con và tất cả đều ham tu. Thầy chúng tôi là
con thứ chín. Bà ăn chay một tháng mười ngày thôi, nhưng chuyên niệm Phật, lúc
nào cũng có xâu chuỗi huyền trên cổ. Khi bà quét nhà, một tay lần chuỗi một tay
quét, nhổ cỏ cũng vậy, một tay lần chuỗi một tay nhổ. Ngày nào tháng nào năm
nào cũng thế. Đến tám mươi bốn tuổi bà bệnh nặng sắp tịch, chúng tôi về trợ
niệm. Bà đang mệt nằm trên giường, thầy chúng tôi đứng phía trên đầu, Tăng Ni
đứng hai bên, con cháu ngồi ở dưới chân cùng nhau trợ niệm cho bà. Khi bớt mệt
bà cười hết sức vui, đứa cháu nội gọi:
-
Bà nội, bà nội! Bà thấy gì mà cười?
Bà
nói:
-
Thấy Phật A-di-đà đến rước tao.
Đứa
cháu hỏi:
-
Có cho tụi con theo không bà nội?
Bà
nói:
-
Không được, rước có mình tao hà.
Rồi
bà lại cười, cười một hồi thì im. Chừng mười phút sau bà cười một lần nữa y như
vậy. Như thế đến ba lần thì bà tắt thở. Cho nên bà chết không ai khóc được, vì thấy
bà cười mọi người đều mừng vui theo.
Quí
vị thấy người niệm Phật chí tâm, đi tới chỗ miên mật thì thấy Phật không nghi
ngờ. Đó là điều xác thật, không phải là tưởng tượng. Chúng ta niệm Phật cốt để
đi tới chỗ nhất tâm. Nhờ câu niệm Phật không nhớ gì hết, nhất là quí cụ già có
bệnh hay nhớ con nhớ cháu. Bây giờ đổi lại, nhớ niệm Phật, nhớ mãi như thế sẽ
quên nhớ con nhớ cháu.
Nếu
nhớ con nhớ cháu khi nhắm mắt sẽ lẩn quẩn theo con cháu nữa, chịu khổ trầm luân
không biết bao giờ ra khỏi. Nên người tu lớn tuổi phải dồn hết tâm lực nhớ Phật
thôi. Chỉ nhớ Phật thì khi nhắm mắt theo Phật, không đi đường nào khác. Đó là
ra khỏi vòng sanh tử, hết khổ đau. Nếu còn nhớ con nhớ cháu thì còn đi lại
trong thế gian, lúc tốt lúc xấu không cố định. Nhiều khi đời này tốt mà đời sau
không tốt. Cho nên Phật tử phải dè dặt cẩn thận.
Các
vị Tổ trong Tịnh độ thường nói câu này: “Người tu Tịnh độ như người đạp gai lấy
gai mà lể.” Nghĩa là sao? Tâm chúng ta lỡ lăng xăng lộn xộn quá, bây giờ muốn
hết tâm đó phải mượn câu niệm Phật để trấn áp nó. Do đó câu niệm Phật giống như
cây gai thứ hai để lể cây gai thứ nhất ra. Gai thứ nhất đã lấy ra rồi, nếu để
cây gai thứ hai ở vết thương cũ thì vết thương có lành không? Không. Lể rồi
cũng phải bỏ cây gai thứ hai luôn vết thương mới lành.
Chúng
ta niệm Phật nhập tâm rồi, được miên mật không còn một niệm nào chen lẫn, cuối
cùng câu niệm Phật cũng lặng luôn. Đó mới gọi là nhất tâm. Khi ấy nhắm mắt thấy
Phật. Phật A-di-đà, Trung Hoa dịch là Vô lượng thọ, Vô lượng quang. Vô lượng
thọ là sống lâu vô lượng, Vô lượng quang là ánh sáng vô lượng. Sáng suốt và
sống mãi đó là danh hiệu của Phật A-di-đà.
Đức
Phật dạy tất cả chúng ta khi tu đến chỗ kết quả viên mãn sẽ có đầy đủ ba thân:
Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân không còn chết nên gọi là Vô lượng
thọ. Pháp thân luôn luôn sáng suốt, không mờ tối nên gọi là Vô lượng quang. Quí
Phật tử thấy Phật A-di-đà tức thấy được Pháp thân của mình. Bấy giờ Phật khỏi
đón về Cực Lạc, ta cũng nhập Niết-bàn được như thường. Kinh nói thấy Phật hiện
tiền chính là ý này, chớ không phải mong Phật đón về Cực Lạc mà được thấy Ngài
hiện tiền.
Chúng
ta tu nếu không nắm vững, không biết lối đi, cứ lẩn quẩn hoài. Càng niệm Phật
càng quên chuyện đời, niệm càng lâu càng nhiều thì việc đời càng giảm. Cho tới câu
niệm Phật cũng lặng luôn, chừng đó nhất tâm bất loạn, đâu còn mong muốn sanh về
chốn nào nữa. Chính khi ấy đức Phật mới hiện tiền. Phật đó chính là Phật pháp
thân của mình. Đó là kết quả của sự tu.
Hiện
giờ thân của chúng ta là thân gì? - Báo thân. Báo thân là thân theo quả báo mà
có. Người quả báo lành được thân đẹp, ít bệnh. Người quả báo dữ tuy được thân người
mà bệnh hoạn tàn tật. Thân chúng ta không giống nhau tùy theo phước nghiệp của
mỗi người. Đã là thân quả báo, chúng ta không thể nào giữ được mãi, vì hết
nghiệp nó phải đi.
Còn
Hóa thân ở đâu, chúng ta có không? Thật ra chúng ta cũng có Hóa thân mà ít ai
biết. Tôi nhớ trong kinh Pháp Hoa, phẩm Hiện Bảo Tháp đức Phật Thích-ca giới thiệu
với đại chúng trong tháp báu có thân của đức Phật Đa Bảo. Lúc đó chư Tăng hỏi
làm sao thấy được thân đức Phật Đa Bảo, Phật Thích-ca trả lời: Muốn thấy thân
Phật Đa Bảo thì các Hóa thân của Ngài đi làm Phật sự khắp nơi tụ họp về, mới
thấy được. Thân Phật Đa Bảo trong tháp tượng trưng cho Pháp thân, các Phật đi
làm Phật sự khắp nơi là Hóa thân. Khi nào Hóa thân tụ hội về một chỗ thì thấy
được Pháp thân.
Chúng
ta cũng có Pháp thân mà không thấy vì Hóa thân đi làm việc nhiều quá, chạy
ngược chạy xuôi đầu này đầu nọ liên miên. Chừng nào Hóa thân tức những niệm
vọng động dừng lặng, bấy giờ Pháp thân mới hiện ra. Một ngày quí vị nghĩ chừng
bao nhiêu việc? Có khi chạy từ đây qua Mỹ, rồi trở về Việt Nam… xong lại chạy
tiếp, chạy liên miên. Thử hỏi làm sao Pháp thân xuất hiện được?
Tất
cả kinh Phật dạy ý không khác, đều nhắc chúng ta phải qui tụ tâm lăng xăng về
chỗ lặng lẽ, không còn dấy động nữa. Lúc đó Pháp thân hiện ra, là giải thoát
sanh tử. Còn nếu chạy theo tâm lăng xăng, tích cực làm Phật sự trong cõi ngũ dục,
thì ngược xuôi trong ba cõi hoài, không có ngày ngừng. Chúng ta tu cố gắng làm
đúng như lời Phật dạy, nhất định sẽ được kết quả tốt. Đó là tôi nói về ý nghĩa
niệm Phật.
Tại
sao chúng ta trì chú? Trì chú là sao? Thí dụ quí bà khi gặp tai nạn hay qua chỗ
tối sợ ma, thì trì chú để bớt sợ. Quí vị tưởng nhờ thần chú ma quỉ hoảng chạy. Như
vậy trì chú để dẹp ma dẹp quỉ hay tai qua nạn khỏi. Hiểu như thế là quá sơ sài.
Phật không dạy điều này bao giờ. Vậy ý nghĩa trì chú ra sao?
Mật
tông dạy chúng ta trì chú muốn được kết quả viên mãn thì phải tam mật: là Thân
mật, Khẩu mật và Ý mật. Mật là thâm diệu. Thâm diệu tới chỗ ba nghiệp lặng lẽ hoàn
toàn, thân lặng, khẩu lặng, ý lặng. Nói tam mật chớ động cơ chủ yếu là ý. Ý mật
thì tất nhiên thân, miệng cũng mật, dù ta vẫn đi vẫn nói nhưng tâm luôn thanh
tịnh. Ý lặng yên thì còn lăng xăng không? - Không. Như vậy trì chú được tam mật
có khác với nhất tâm đâu.
Cho
nên trì chú cũng với mục đích đưa chúng ta tới chỗ Ý mật, tức là nhất tâm. Vì
vậy niệm Phật, trì chú đều gặp nhau ở chỗ cứu kính, chỉ khác nhau ở phương
pháp. Nếu niệm Phật muốn có kết quả thì khởi đầu phải Tin. Tin cõi Cực Lạc, tin
đức Phật A-di-đà, rồi tới Hạnh, Nguyện. Còn trì chú khởi đầu là tin sự huyền bí
của câu chú. Như chú này linh lắm, khi trì chú này được các vị thần ủng hộ, ma
quỉ chạy hết. Một bên tin Phật, một bên tin sự linh nghiệm, mầu nhiệm của thần
chú. Nhờ lòng tin đó hành giả cố gắng niệm. Kết quả một bên được nhất tâm, một
bên được Ý mật. Rõ ràng hai phương pháp khác nhưng cứu kính không hai.
Tại
sao chúng ta tu thiền định? Hiểu hai pháp trên thì sẽ hiểu được pháp tu thiền
định. Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng
lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh
đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy
Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ. Như
vậy có giống kinh Di-đà không? Định giống như niệm Phật được nhất tâm, Tuệ
giống như thấy Phật Di-đà vô lượng thọ, vô lượng quang. Rõ ràng kinh và pháp tu
thiền không rời nhau. Hệ Nguyên thủy đạt tới Chánh định là chót, nhưng hệ Đại
thừa từ định phải qua trí tuệ mới rốt ráo. Đúng như kinh Di-đà, Phật dạy nhất
tâm rồi thấy Phật Di-đà.
Chúng
ta tu thiền định là tu thế nào? Nhiều vị không hiểu nói người mới tu thiền phải
quán hơi thở tức là Sổ tức. Sổ tức là đếm số, hít vô cùng đếm một, thở ra sạch đếm
hai, đếm tới mười bỏ, rồi đếm trở lại một. Cứ như vậy đếm hoài cả buổi có lợi
ích gì đâu, mầu nhiệm gì đâu. Còn người ta niệm Phật có phước.
Nhưng
tại sao chúng ta đếm hơi thở? Vì muốn dừng tâm lăng xăng. Như hít vô nhớ mình
hít vô tới đâu, thở ra nhớ mình thở ra tới đâu, rồi nhớ số nữa. Bắt nhớ như thế
để tâm quên chạy theo vọng tưởng. Pháp tu có khác nhưng trọng tâm không hai,
cốt dừng tâm chạy ngược chạy xuôi hàng ngày. Dừng được tâm này là định nên nói
thiền định. Thiền định là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Tĩnh lự, nghĩa là lặng
cái suy nghĩ lăng xăng, chớ không gì lạ.
Qua
giai đoạn đếm hơi thở rồi đến giai đoạn theo hơi thở. Khi ta chú tâm đếm hơi
thở, tâm không chạy bậy, lần lần thuần thục ta bỏ đếm, chỉ theo hơi thở thôi. Nghĩa
là hít vô tới đâu biết, thở ra tới đâu biết. Theo dõi như người thiếu nợ trốn
chủ, bất thần chủ nợ tìm gặp, nên theo sát lưng không bỏ. Tu cũng vậy, ban đầu
đếm hơi thở, sau đó theo hơi thở thật khít khao để tâm không tán loạn. Đó là
phương tiện buổi đầu của người tập tu thiền.
Ở
đây chúng tôi dạy tu thiền hơi khác hơn một chút. Tôi dạy khi niệm dấy khởi lên
biết nó là hư dối, bỏ. Không chạy theo mà cứ chỉ mặt nó hoài, lâu ngày nó tan
mất. Bởi vì khởi nghĩ của mình không thật, mà mê theo nó thì thành thật. Như giận
người A, khi dấy niệm giận mình theo niệm đó phát nổi hung hăng, muốn chửi đánh
người ta, thành ra có tạo nghiệp. Còn vừa nhớ tới chú A liền bỏ không nghĩ, thì
đâu còn tức mà muốn đánh chửi người ta. Manh mối ban đầu vừa mọc mầm liền thấy,
chỉ mặt nó thì nó dừng lại nhẹ nhàng.
Niệm
Phật là dùng câu niệm để dẹp vọng tưởng, trì chú là dùng câu thần chú để dẹp
vọng tưởng, còn tọa thiền dùng trí thấy thẳng, chỉ thẳng vọng tưởng để dẹp nó. Nhưng
chỉ thẳng để dẹp là thấy ngay lẽ thật, chớ không mượn phương tiện để dẹp. Vì
vậy tới chừng vọng tưởng lặng là xong, không còn gì để bỏ nữa. Như vậy tu tụng
kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền, trọng tâm đều dừng các niệm lăng xăng. Tất
cả pháp Phật dạy không có ý khác, chỉ khác ở phương tiện thôi.
Thiền
tông dạy “trực chỉ nhân tâm” (tức chỉ thẳng tâm người), “kiến tánh thành Phật”
(là nhận ra Bản tánh của mình) thì thành Phật. Chỉ thẳng tâm người là tâm lăng xăng,
tâm điên đảo đó. Nó vừa dấy lên, chỉ mặt rầy thì nó lặng. Cho tới bao giờ tâm
ấy hoàn toàn lặng hết thì tánh Phật hiện ra. Tánh Phật là Pháp thân, ngang đó
gọi là kiến tánh thành Phật, tức nhận ra Bản tánh thì thành Phật, cũng như thấy
Phật Di-đà. Vì vậy người tu thiền không đặt lòng tin mà đặt trí tuệ lên hàng
đầu. Nhìn thẳng thấy rõ ràng, không để nó lừa gạt mình. Nó rủ đi đâu là chận
liền, không cho nó dụ dỗ.
Ba
pháp tu tuy nói ba nhưng gốc chỉ có một. Cho nên người tu Tịnh độ không nên chê
người tu Thiền. Người tu thiền không nên chê người tu Mật v.v… Chỉ chê là chê
tu không đúng thôi. Nếu tu đúng lời Phật dạy thì pháp nào cũng đưa đến nhất
tâm, đưa đến chỗ cứu kính thành Phật.
Phật
tử bây giờ có bệnh, mình tu thích hợp với pháp này liền chê pháp của người
khác, khen pháp của mình. Do đó tâm lăng xăng càng tăng trưởng chớ không giảm.
Như vậy đâu phải tu. Vì tu là để giảm suy nghĩ lăng xăng, rối bời đó mà mình tu
càng ngày càng tăng là không đúng rồi. Cho nên thấy người tu niệm Phật, ta hoan
hỉ nói : “Chị tu niệm Phật tốt. Ráng niệm cho nhất tâm.” Thấy người tu trì chú,
nói : “Anh tu trì chú tốt. Ráng trì cho tới tam mật.” Thấy người tu thiền nói :
“Anh tu thiền tốt. Ráng ngồi thiền cho được định.” Như vậy ai cũng tốt hết.
Người
biết tu phải hiểu cho thấu đáo để không hờn phiền những người đồng đạo. Nếu
không khéo sẽ dẫn tới tình trạng người này trách người kia, người kia phiền
người nọ. Chính huynh đệ trong đạo chỉ trích nhau hoài, không hòa thuận nói gì
tu hành. Bởi vậy nên tất cả quí vị phải thấy rõ điều này.
Tại
sao Phật dạy chúng ta phải dẹp cái nghĩ lăng xăng lộn xộn của mình? Những ý
nghĩ quấy dẹp thì phải, nhưng ý nghĩ phải tại sao cũng dẹp? Nếu nghĩ xấu sai,
ta sẽ nói làm theo nghiệp ác. Nếu nghĩ tốt dĩ nhiên ta nói làm theo nghiệp lành.
Như vậy nghiệp lành, nghiệp ác từ ý nghĩ mà ra. Nghiệp ác thì đọa vào đường dữ,
nghiệp lành thì sanh về cõi lành. Nhưng dù lành hay dữ cũng còn trong dòng trầm
luân sanh tử, còn trở đi trở lại mãi trong ba cõi là còn khổ. Tại sao nghiệp
lành vẫn không giải thoát? Vì nghiệp lành thì sanh cõi lành, như được làm người
sung sướng, nhưng mấy chục năm hưởng hết phước rồi cũng chết. Hoặc sanh lên cõi
Trời, ở cảnh cao sang muốn gì được nấy, nhưng hết phước cũng đọa xuống trở lại.
Lên lên xuống xuống không có ngày cùng. Chỉ có ra khỏi dòng sanh tử mới được giải
thoát, hết khổ đau.
Bây
giờ nếu chúng ta tu tới nhất tâm, không còn nghĩ thiện nghĩ ác thì đi đâu? -
Hết nghĩ thì hết nghiệp, hết nghiệp là hết sanh tử, đó là giải thoát chớ gì!
Chỗ cứu kính chân thật đức Phật chỉ cho chúng ta thấy là cái sáng suốt, bất sanh
bất diệt nên gọi là Niết-bàn, vô sanh. Không có sanh lấy gì có tử?
Đức
Phật vì thương chúng sanh mê lầm đuổi theo hư ảo cho là mình, rồi cả ngày sống
trong cái hư ảo đó, chịu vô lượng khổ đau. Đã sống trong hư ảo thì dù làm việc
tốt cũng chưa hẳn là tốt. Ví như có hai nhóm đi làm từ thiện. Nhóm A được nhiều
người hoan nghênh, nhóm B cũng làm từ thiện nhưng lại bị nhiều người chỉ trích.
Vậy nhóm B có vui nhìn nhóm A không? Bị thua thì giận rồi, mặc dù giận vì làm
việc thiện.
Bởi
vậy nói tâm của chúng ta không chân thật. Vì nó hư ảo nên biến chuyển luôn. Do
đó nhiều người lúc nhỏ rất hiền lành, nhưng lớn lên bị ngoại duyên không tốt
tác động lâu ngày trở thành hung dữ. Còn có người lúc nhỏ hung dữ, nhưng lớn
lên nhờ gần gũi duyên tốt nên trở lại hiền lành. Tâm ta luôn đổi thay, không
đứng một chỗ. Gặp môi trường tốt, thầy tốt, bạn tốt thì tốt theo, gặp môi
trường xấu, thầy xấu, bạn xấu thì xấu theo. Tâm đó tùy thuộc ngoại cảnh chớ
không tự làm chủ được. Vậy mà tất cả chúng ta đều đuổi theo, nhận nó là mình,
thử hỏi có đáng buồn không?
Nếu
chúng ta không nhận những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn đó là tâm mình, thì dù ở
chung cả trăm ngàn người cũng không có chuyện cãi vã, nói gì đánh đập nhau. Sở
dĩ chúng ta ở chung có chuyện này, chuyện kia là vì không đồng ý nhau. Mỗi người
đều cho cái suy nghĩ là đúng, là tâm mình nên rồi hơn thua, phải quấy, oán thù đủ
chuyện. Nuôi tâm ấy như nuôi kẻ cướp trong nhà vậy. Do đó Phật nói: “Nhận giặc
làm con.” Vì nhận giặc làm con nên cưng nó, nghe lời nó, không chịu bỏ nó. Đã
vậy thì đời ta cứ đi trong trầm luân đau khổ không có ngày cùng.
Muốn
ra khỏi dòng sanh tử không gì hơn là lặng được chú tạo nghiệp đó. Nghĩa là đừng
nhận nó làm con nữa, đuổi nó ra khỏi nhà. Dễ quá, nó không phải là con mình thì
đuổi đi. Nhưng khổ nỗi ta lại thương nó, không chịu đuổi. Khi thấy chúng sanh
mê lầm như vậy, đức Phật có thương không? - Có. Chúng ta thấy tượng đức Phật
A-di-đà đứng duỗi tay xuống, phía dưới là chúng sanh đang lặn hụp giữa biển cả
mênh mông. Ngài đưa tay xuống chờ chúng sanh ngóc đầu dậy thì kéo liền. Nhưng
chúng sanh cứ mải miết lặn hụp không chịu đưa tay cho Ngài kéo. Ngài sẵn sàng
vớt mà mình không chịu đưa tay.
Mỗi
một ngày hết mười hai tiếng chúng ta chạy theo cái hư giả, chỉ còn một hai
tiếng trở về cái thật, nên ráng buông xả cho các vọng tưởng lặng xuống, giành
quyền làm chủ phần nào. Nếu không mình cứ bị nó làm chủ mình hoài. Ngày nào ta
giảm bớt được hơn thua, phải quấy thì ngày đó an vui. Ngược lại, nếu cứ để nó
lôi dẫn chạy ngược chạy xuôi hoài, khi nhắm mắt chắc chắn phải luân hồi sanh
tử.
Phật
tử tu mà không hiểu, cứ ỷ lại vào thầy. Tháng nào cũng đi chùa cúng thầy một
ít, chừng nào nhắm mắt mời thầy tới độ cho về Cực Lạc, khỏe ru. Tu như vậy thì oan
cho đạo Phật quá. Quí vị phải nhớ chúng ta lo cho Tam Bảo, để việc giáo hóa mọi
người thức tỉnh được trường tồn, được phát triển. Muốn thế bản thân mình phải
tu, rồi tạo điều kiện hỗ trợ Tam Bảo tồn tại lâu dài nơi thế gian, đem lại lợi
ích cho tất cả chúng sanh.
Hôm
nay tôi nhắc những điều thiết yếu cho tất cả quí Phật tử biết, ứng dụng tu đúng
pháp Phật dạy. Bây giờ quí vị đã hiểu tại sao chúng ta phải tụng kinh, niệm
Phật, trì chú, tọa thiền rồi, mong tất cả thực hành đúng theo chủ ý Phật dạy. Đừng
vì sự tu mà tạo phân biệt, nuôi lớn thêm phải quấy đối đãi, trái xa với bản ý
Phật dạy, cũng là tự vùi lấp sự giác ngộ của mình.
Hiểu
vậy trên đường tu tôi tin chắc quí vị sẽ tiến, sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
Nguồn tin: theo giacngo.vn
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự