ĐÁP:
Thuyết nhân quả là một trong những giáo lý cơ bản của Phật giáo. Phạm trù nhân
quả rất rộng lớn, đa dạng, tương quan mật thiết và tác động lẫn nhau trong thời
quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì thế, để hiểu một cách sâu sắc và toàn triệt về
nhân quả, nhất là quả dị thục thì ngoài việc nghiên cứu về phương diện lý
thuyết cần phải thể nghiệm nhân quả bằng tuệ giác, kinh nghiệm nội tại thông
qua thiền định như các bậc Thanh, bởi quả dị thục của nghiệp là một trong bốn
phạm trù mà con người không thể tư duy được (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm Bổn
pháp).
Nhân quả nói đầy đủ là nhân-duyên-quả. Nhân là nguyên nhân chính, duyên là
những nguyên nhân phụ, quả là kết quả. Tiến trình từ nhân đến quả rất phức tạp:
nhân quá khứ trổ quả hiện tại; nhân quá khứ trổ quả vị lai. Trong đó, duyên
(nhân phụ) đóng vai trò rất quan trọng, chi phối mãnh liệt đến quả, có khả năng
làm lệch hướng kết quả so với nhân ban đầu. Do vậy, nhận thức nhân quả phải dựa
trên nền tảng, tương quan duyên khởi, mỗi hiện tượng vừa là kết quả vừa là
nguyên nhân, luôn chi phối lẫn nhau vô cùng tận.
Con người, theo Phật giáo là một hợp thể của vật chất và tinh thần (năm uẩn).
Nó là kết quả của quá trình vận động nhân quả-nghiệp báo. Quá trình vẫn động
này không đơn thuần là nhân nào quả nấy mà cả một chuỗi nhân-duyên-quả tương
tác qua lại, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau trùng trùng điệp điệp để hình thành
chúng sanh. Hai phương diện thân và tâm (hình dáng và tính cách nói riêng) của
một cá nhân là sự phản ánh trung thực nhân quả-nghiệp báo của người ấy đồng
thời nhân quả liên tục ảnh hưởng và chi phối trực tiếp đến thân tâm, từng phút
giây trong hiện tại.
Đành rằng trong kinh điển Phật giáo có đề cập đến những loại nhân quả có tính
tương ứng nhất định như: “Quá đam mê sắc dục đời sau sẽ làm chim sẻ, bồ câu;
quá si mê đời sau sẽ làm lợn, dê, hay trêu ghẹo người đời sau làm khỉ, vượn…”
(Kinh Địa Tạng) hoặc “Người nào nhiều nóng giận, phẫn nộ đời sau chịu xấu xí,
người nào không nóng giận, phẫn nộ đời sau được đẹp đẽ…” (Kinh Tiểu Nghiệp Phân
Biệt, Trung Bộ III). Vì nghiệp nhân của mỗi người đều có thiện ác lẫn lộn nên
có quả báo thiện ác, tốt xấu xen lẫn như: Có người đẹp mà nghèo, có người xấu
lại thông minh; có người giàu lại nhiều bệnh; có giai đoạn thì cực khổ rồi giai
đoạn khác lại hanh thông v.v… Chỉ có một số ít người tốt đẹp hoặc xấu ác hoàn
toàn.
Tuy nhiên, tất cả những gì xảy đến cho con người không phải hoàn toàn dựa vào
nghiệp nhân quá khứ mà còn phụ thuộc rất nhiều vào nghiệp nhân trong hiện tại
(nghiệp mới). Bởi nghiệp mới có khả năng chuyển hoá những nghiệp cũ trong quá
khứ, thậm chí có thể chấm dứt dòng sanh tử. Mặt khác, một nghiệp nhân chưa hẳn
đưa đến quả dị thục do thiếu duyên chẳng hạn. Vì thế, “không thể nào lập được
một bản liệt kê đối chiếu giữa các loại nhân và quả bởi vì nhân và quả đều là
duyên sinh mang ý nghĩa bất định như các pháp hữu vi khác” (Thích Chơn Thiện,
Phật học khái luận, Nhân quả, tr.247)
Do đó, vấn đề tướng mạo đẹp xấu của con người, theo Phật giáo là kết quả của
những nghiệp nhân trong quá khứ và hiện tại. Tuy vậy, không nên nhận thức đơn
thuần theo cách nhân nào quả nấy một cách cố định mà cần nhận thức nhân quả
trong tương quan trùng trùng duyên khởi đồng thời phải thấy được vài tro tích
cực của nghiệp mới trong nỗ lực chuyển hoá nghiệp cũ.
Về phương diện khoa học, gien di truyền (AND) quyết định hình dáng đẹp xấu của
con người là kết quả nghiên cứu khoa học, được chứng minh cụ thể và điều này
không có gì mâu thuẫn với thuyết nhân quả. Bởi nếu xem bộ gien là nhân thì
những gì được bộ gien thiết lập chính là quả. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào nguyên
lý vật chất duy nhất là gien di truyền để quyết định tướng tạng đẹp xấu của con
người trong suốt đời thì chưa đủ
Đơn cử có gia đình người cha da đen, mẹ da trắng sinh ra ba người con, một da
trắng đẹp đã và hai da đen xấu xí. Ba người con này có chung một bộ gien di
truyền nhưng do tính chất trội và lặn mà có người đẹp người xấu.vậy ai hoặc cái
gì chi phối việc “trội,lặn” của gien? Do trời hay số phận? Phật giáo khẳng định
do nhân quả-nghiệp báo của chính người ấy. Ví dụ khác, hai người sanh đôi giống
hệt (trường hợp một nhân tách làm hai) nhưng vì hoàn cảnh nên từ nhỏ mỗi người
sống một nơi. Hai mươi năm sau gặp lại, người A cao to, khoẻ mạnh, thông minh
và người B nhỏ thấp,gầy yếu,chậm lụt. Người B vẫn mang trong mình bộ gien tốt
nhưng do môi trường sống quá thiếu thốn nên không phát triển đúng mức. Vậy thì bộ
gien tốt vẫn chưa quyết định hoàn toàn đến tướng trạng con người! Trường hợp
khác, một người có gien đẹp đẽ, thông minh lớn lên được như ý nhưng không may
bị tai nạn, trở thành tật nguyền, tàn phế. Trong khi có người sinh ra bị sứt
môi nhưng lớn lên đủ duyên lành phẫu thuật trở lại bình thường. Vậy thì trong
thời điểm hiện tại ai xấu, ai hạnh phúc, ai khổ đau?
Mặt khác, con người ngoài thân thể vật chất còn có tinh thần. Gien di truyền
không quy định được tính cách, tâm lý vốn sanh diệt trong từng sát na. Do vậy,
gien di truyền chỉ là nhân quả của một giai đoạn, mang tính thứ yếu, là một
duyên trong việc quyết định tướng trạng hay thân phận của đời người. Chính nhân
quả-nghiệp báo của cá nhân mới quyết định trọn vẹn đến các phương diện của đời
sống.
Nguồn tin: theo Tổ tư vấn Báo Giác Ngộ
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự