"Đại bàng" tung hoành phố
núi
Nhìn
khuôn mặt hiền lành, phúc hậu của Thích Chơn Hữu, trụ trì chùa Định Quang (thôn
Dạ Lê, xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế), ít ai biết trước đây
thầy vốn là một “đại ca” khét tiếng ở xứ Đà Lạt. Chơn Hữu tên thật là Huỳnh
Thiện Hữu (SN 1971, ở xã Vinh Xuân, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế).
Năm
1975, gia đình lưu lạc lên Đà Lạt lập nghiệp. Suốt quãng thời gian học cấp I,
Hữu thường xuyên có mặt trong các kỳ thi học sinh giỏi văn TP. Đà Lạt. Lên lớp
9, Hữu bỗng thay đổi bản tính, những trang văn hay cứ thưa dần, thay bằng võ
nghệ.
Cậu bé học giỏi, ngoan ngoãn luôn chiếm được tình cảm, lòng thương của
thầy cô, bạn bè đã không còn như ngày xưa. Thay vào đó, Hữu cùng những học trò
cá biệt, con nhà giàu ham chơi tập trung thành một hội quậy phá trong trường,
răn đe những học sinh khác. “Bang hội” ngày càng có uy tín, rồi tổ chức đánh
nhau, bỏ học tập thể do chính Hữu phát động...
Mẹ Hữu không ít lần được nhà
trường mời lên họp phụ huynh vì những trò quậy phá của Hữu. Người cha qua đời
vì tai nạn. Hoàn cảnh gia đình khánh kiệt, một mình mẹ của Hữu chèo chống nuôi
năm anh em Hữu ăn học. Mất đi người cha, trụ cột trong gia đình, Hữu cảm thấy
hụt hẫng, chán nản.
Tuổi
16, Hữu bỏ học, gia nhập “xã hội đen” khi trở thành thành viên của băng “Ánh
sáng” - một nhóm giang hồ chuyên làm “luật rừng” ở các quán bar, vũ trường và
tổ chức đua xe trái phép ở Đà Lạt.
Băng này hội tụ từ 20 đến 30 thanh niên có
chút võ nghệ cộng với máu liều. Hữu và đồng bọn thường đến các vũ trường chơi
bời, làm bảo kê, đòi nợ thuê và dằn mặt những kẻ nào dám chơi trội; và kiêm
luôn việc “che chở” cho những cô vũ nữ, những gái bán thân... “Ánh sáng” lạnh
lùng một cách tàn nhẫn.
Chỉ cần có tiền và để khẳng định địa vị của mình, các
thành viên sẵn sàng đè đầu cưỡi cổ, dẫm đạp lên kẻ khác để đạt được mục đích.
Họ sát phạt đối phương một cách không thương tiếc” - sư Chơn Hữu nhắc lại.
Chỉ
vào vết thương trên tay, Chơn Hữu khoe: “Một lần, nhóm giang hồ ở quận 4
(TPHCM) lên Đà Lạt để tống tiền hoặc xử đẹp một cô vũ nữ ở vũ trường Minh Tâm
theo sự thuê mướn của người chồng cũ. “Ánh sáng” phải ra tay dàn xếp để bảo vệ
cho cô vũ nữ - “con mồi” của mình ở đất Đà Lạt.
Lợi thế chủ nhà và sự liều
lĩnh, “Ánh sáng” đã thâu tóm được nhóm giang hồ kia. Kẻ cầm đầu bị một đồng bọn
của Hữu chém tới tấp. Thấy nguy kịch đến tính mạng của người này, Hữu thấy
thương rồi giơ tay đỡ nhát chém cuối cùng. Nhóm của Hữu còn tổ chức đua xe ăn
tiền. Chiếc xe 67 - “hung thần đường đua” mang về cho Hữu những khoản tiền lớn.
Sau
4 năm, Hữu tách khỏi “Ánh sáng” để lập băng hội mới với hơn 20 đệ tử, kéo nhau
lên bãi vàng Tà In (xã Tà In, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng) hoạt động. Đây cũng là
cách để anh chạy trốn khỏi gia đình, tránh cho mẹ già những đau xót, phiền toái
bởi kẻ thù của anh không hề ít.
Thời gian, mẹ và các anh chị đã “từ” mặt anh.
Mọi người khuyên răn mấy cũng chẳng lay chuyển được cái “ông tướng” đã ngấm sâu
trong mình dòng máu giang hồ. Ngang tàng, ương ngạnh là thế nhưng Hữu không bao
giờ có thái độ thái quá đối với mẹ, anh chị.
Sư Chơn Hữu và lớp học tình thương dành
cho học sinh nghèo ở địa phương
Lương tâm dằn vặt
Ở
chốn đại ngàn heo hút, khắc nghiệt, nhóm của Hữu đã thể hiện “đẳng cấp” so với
các nhóm đào vàng khác. Anh kiếm được số tiền, vàng rất lớn. Hữu sắm máy ảnh,
lúc rảnh rỗi thì chụp ảnh hoặc thỉnh thoảng xách máy đi Đà Lạt chụp ảnh cho du
khách để tìm thú vui. Anh tìm thấy hạnh phúc ở cảnh vật thiên nhiên và tình
người ở những nơi anh đã đến.
Hữu dần cảm thấy chán nản cuộc sống giang hồ vốn
chỉ có cảnh ăn chơi, chém giết, gây tội lỗi, thù oán. Rồi Hữu bị sốt rét nặng,
được điều trị ở Bệnh viện tỉnh Lâm Đồng. Anh nằm mê man, khi tỉnh dậy thì thấy
mẹ bên cạnh khóc khan cổ.
Bà đã thức suốt hai đêm để chăm con. Lúc này, Hữu rút
ra bài học từ hai người bạn thân của anh, cũng là hai “đại ca”: một người là
công tử nhà giàu, rất máu lạnh, chơi bời ngày càng trượt dốc và mắc căn bệnh
HIV/AIDS.
Người bạn nữa cùng hai em đều rất đẹp trai và là những “anh chị”
nhưng tự kết liễu cuộc đời bằng việc uống thuốc độc; thấy ba con chết đau đớn,
người mẹ không nơi nương tựa cũng tự tử bằng thuốc độc.
Nghĩ
đến những cái chết bi thảm của bạn, Hữu rùng mình. Anh ngẫm rằng sức lực con
người cũng có hạn, không thể huy hoàng mãi trong chốn giang hồ, có lúc phải trả
giá đắt. Nhớ lại giấc mơ về mẹ đi chùa, tay lần tràng hạt cầu phúc cho mình,
Hữu dự định việc đầu tiên sau khi xuất viện là đến chùa thỉnh cầu sư thầy, thắp
nhang ăn năn về quá khứ tội lỗi của mình...
Quyết
định “rửa tay gác kiếm” khi đang trong thời kỳ đỉnh cao phong độ, địa vị, tiền
bạc... Trở về mảnh đất Huế nơi anh sinh ra vào năm 1999 trong tình cảnh trắng
tay (ngoài chiếc máy ảnh). Chứng kiến trận lũ lịch sử nhấn chìm không biết bao
nhiêu sinh mạng, nhà cửa..., anh càng thấm thía về sự sống, cái chết và thống
khổ giữa cuộc đời.
Hữu tìm đến ngôi chùa Huyền Không Sơn Thượng (huyện Hương
Trà) để tu hành. Hữu trình bày hoàn cảnh, được trụ trì hiểu, cho làm công quả ở
chùa. Hữu tâm sự: “Trong vòng xoáy cuộc đời, dù ở đâu, khi nào thì con người
vẫn là chúng sinh khao khát sống nhất. Sự khát sống ấy được biểu hiện dưới
nhiều phương diện khác nhau, nhưng chung quy vẫn khởi xuất từ ý niệm trực nhận
về sự giới hạn thân phận đời sống mình trong vũ trụ bao la giữa dòng thời gian
vô cùng vô tận”.
Gieo tình thương vào đời
Hàng
ngày, anh thức dậy ngồi thiền, đọc kinh Phật và ôm chiếc bình bát đi khất thực
vào mỗi buổi sáng sớm... Lần đầu tiên Hữu quỳ lạy trước một con người đó là lạy
mẹ ba lạy báo hiếu, ăn năn trong lễ thọ giới cho Hữu. Hai năm sau, Hữu khoác
trên mình tấm áo vàng nhà Phật về thăm nhà, thăm những người bạn.
Nhiều đệ tử
trố mắt ngạc nhiên khi đại ca Hữu đã thành thầy chùa Thích Chơn Hữu. Riêng
người bạn thân tên Duy được anh giảng giải Phật pháp và những hiểu biết, hạnh
phúc cuộc đời. Duy đã ngộ ra giá trị cuộc đời và ra đi trong thanh thản khi căn
bệnh “ết” vào giai đoạn cuối.
Năm
2005, Chơn Hữu được điều về làm trụ trì chùa Định Quang. Lúc này, chùa chỉ là
một đống đổ nát, trụ trì phải sống và làm việc ngay trong chánh điện thờ Đức
Phật. Bằng tâm huyết và sức lan tỏa của mình, Chơn Hữu làm cho chùa “thay da
đổi thịt”, có cơ sở khang trang, hàng trăm Phật tử sinh hoạt thường xuyên tại
chùa.
Chơn Hữu kêu gọi tấm lòng của các nhà hảo tâm, sự giúp đỡ của chính quyền
địa phương để tu bổ chùa, chi phí cho các lễ hội... Lúc rảnh rỗi, Hữu dốc lòng
vào việc chụp ảnh nghệ thuật. Theo một số nhiếp ảnh gia thuộc hội Nhiếp ảnh
TT-Huế “Hiện ở Huế, Chơn Hữu là một trong số ít những người chụp ảnh đẹp; là
một tay ảnh lão luyện, chuyên nghiệp, sành sỏi”.
Chơn Hữu đã năm lần tổ
chức triển lãm ảnh trên địa bàn tỉnh và một triển lãm ảnh toàn quốc; số tiền
bán ảnh làm từ thiện. Đầu năm 2010, Chơn Hữu đã tổ chức cuộc triển lãm với 40
bức ảnh mang chủ đề “Xuân yêu thương”. Chỉ vào những bức ảnh về sinh vật nhỏ bé,
hoang dại nhưng rất có “hồn”: bông hoa dại e ấp bên đường, giọt sương long
lanh, côn trùng bé nhỏ dễ thương...
Chơn Hữu cho biết: “Ý nghĩa đích thực của
cuộc đời chính là lòng yêu thương vô lượng với trần gian này”. Năm 2009, Chơn
Hữu cho xây dựng lớp học tình thương mang tên: “Tuệ học đường”, rồi nhờ giáo
viên về dạy Anh văn miễn phí cho học sinh cấp 2, cấp 3 có hoàn cảnh khó khăn
trên địa bàn. Khóa học đầu tiên với 240 em. Dự định, thầy Hữu sẽ duy trì và mở
rộng lớp học tình thương này khi nào vẫn còn sống trên đời.
Gần
5 năm qua ở địa phương, sư Chơn Hữu luôn đồng hành cùng các gia đình neo đơn,
nạn nhân lũ lụt, người tàn tật... Ông Trương Văn Công, Phó chủ tịch UBND xã
Thủy Phương cho biết: “Tỳ kheo Thích Chơn Hữu đã có nhiều việc làm thiết thực,
có ý nghĩa đối với địa phương như hỗ trợ hàng ngàn suất quà, tiền mặt; mở lớp
học tình thương dạy miễn phí cho học sinh nghèo. Bản thân Chơn Hữu luôn sống
tốt đời, đẹp đạo”.
Thầy khoe về tài sản: “Không gì ngoài sức khỏe, con mắt chụp
ảnh nghệ thuật và “rừng” hoa phong lan trong khuôn viên chùa”. Chùa Định Quang
như một “bảo tàng” lan rừng với hơn nghìn khóm, được sưu tập từ nhiều lần đi
khất thực ở vùng núi xa xôi hoặc thời gian tu ở chùa Huyền Không Sơn Thường.
Chơn Hữu còn khoe với chúng tôi về việc sau khi nghe kể về mình, có hai “đại
ca” tận ngoài Hà Nội vào diện kiến. Tỳ kheo Chơn Hữu đã “cảm hóa” được hai
người này và thuyết phục họ lên chùa Huyền Không Sơn Thượng để tu hành, tìm con
đường giải thoát khỏi khổ đau, bế tắc.
Những
câu thơ của Chơn Hữu như để chia tay một quá khứ vàng son nhưng đầy tội lỗi:
Tôi chỉ hiểu trần gian đầy thống khổ
Cho nên tôi chấp nhận kiếp phiêu bồng
Tôi đã sống một cuộc đời sốc nổi
Đã cố sống dữ dội hết mình
Ôi! Danh với lợi dễ làm người sa ngã
Đắm say chi cho tan kiếp người...
Nguồn tin: Công an TP.HCM
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự