Môn
văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm, tập
cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có
phương pháp riêng của nó hay sao ?
Phương
pháp học Phật tức là ba môn Huệ học : Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Bởi vì muốn
vào cửa giác ngộ, không phải anh tướng trí huệ thì không sao vào được. Phật
pháp là chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí huệ soi sáng, làm
sao chúng ta thấy mọi sự vật ở chung quanh, không cần trí huệ, chỉ dùng lòng
tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng
bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này. Chúng ta phải
ứng dụng triệt để ba môn Huệ học vào công trình tu học Phật pháp.
Thế nào là Văn huệ?
Văn
là nghe, do nghe giáo lý của Phật pháp, trí huệ mở sáng, gọi là Văn huệ. Chúng
ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức đã tu
học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa
toàn lời lẽ chơn chánh, chỉ bày mọi sự vật cho chúng sinh. Càng nghe trí huệ
chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang
trí huệ cũng thuộc Văn huệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh
sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn huệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.
Thế nào là Tư huệ?
Tư
là suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí
huệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong
kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta
phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta mới
tin. Có thể, mới thực hành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà
đi, thắp đuốc lên với chánh pháp", trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở
mang trí huệ, song tự mình làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí huệ của mình
với ngọn đuốc chánh pháp của Phật, trí huệ mới phát sáng.
Ví
như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng : "Tất cả thế gian đều là vô thường".
Sau đó phải dùng trí huệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt
câu hỏi : tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật lệ
ấy chăng ? Nếu có, câu nói này chưa phải là chân lý. Bằng không, mới thật đúng
chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát :
Con
người có phải vô thường không ? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều sanh ra, lớn
lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên,
bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế, ngoài
xã hội cũng thế, cả nhơn loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau
này cũng thế. Quả là con người vô thường.
Đến
những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghết, xe cộ v.v... có bị vô thường không ? Chính
cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần,
đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xem bóng loáng
tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư
hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm võ đã rách,
cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe
cộ... những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến
trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.
Chúng
ta có thể kết luận rằng : "Tất cả thế gian là vô thường", quả thực là
chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được
lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vững
chắc không dễ gì lung lay.
Lại
một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng : "Muôn vật ở
thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi". Ta tự đặt câu hỏi : Tại sao muôn
vật đều luân hồi ? Có vật nào không luân hồi chăng ? Chúng ta bắt đầu xét từ thực
vật :
Cây
cối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết
trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là
sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy
không ? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất
nước... nuôi dưỡng mới được sinh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước
nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, càng gãy mục cũng thành
phân đất, thân cây ngã gục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sinh
trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.
Nước
do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành
nước, nước lại bốc hơi... mãi mãi không cùng.
To
như quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn
cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày, giờ, tháng năm, thời tiết
xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng.
Do
sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay
quanh vòng luân hồi" là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.
Trên
đây tạm cử vài ví dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn
cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư Tăng dạy trong những
trường hợp khác. Có thể, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng tinh thần
người học Phật.
Thế nào là Tu huệ?
Sau
khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hàng
ngày của mình, khiến chánh lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu huệ. Ví như, biết rõ
"Tất cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời
sống mình, trong những trường hợp như sau :
Đã
biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình
ta, ta vẫn giữ bình tỉnh không hốt hoảng sợ hãi. Vì biết chắc điều đó ở thế
gian không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi không
sợ nên tâm ta bình tỉnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng
ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.
Biết
rõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguôi
lạnh. Tranh giành những thứ bạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau
khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòng tham lam giành giật
dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.
Do
thấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm
mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm
được. Lại biết quý tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại được, phải cấp
bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chờ.
Đó
là ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng
tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo
đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên
gọi là "Tu huệ".
Ví
dụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý luân
hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào
tốt đẹp, an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt, nẩy mầm, sinh trưởng
thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... chúng ta nên chọn lựa hạt tốt
giống ngon đem ương. Để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người được tthưởng
thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi,
ta cần tạo những nhơn tốt, nhơn an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn
trong chỗ tốt, chỗ an vui.
Đã
biết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào
trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi.
Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa học
nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền đủ sức mạnh
vượt ra ngoài vòng hút của quả đất, đi thẳng vào quỹ đạo v.v... Biết luân hồi
để tìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu huệ".
Văn
huệ, Tư huệ rất cần thiết, song tu huệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn huệ,
tư huệ mà thiếu tu huệ thì chỉ là huệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời
sống con người. Nhờ tu huệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp
cho văn, tư được kết quả viên mãn.
Vì
thế, Đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni
rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần
phải phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng
theo bài kinh Ma Ha
Ba
môn Huệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận
môn học nào, trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm
hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là văn huệ; phê bình tức là tư huệ, thí
nghiệm tức là tu huệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ và phát minh những điều mới
lạ.
Tuy
nhiên về mục tiêu chính yếu Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh
mọi sự thật của ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt
thiên nhiên làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túc cho
nhơn loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn lọc đào thải những tâm
thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây
tạo điều kiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giành giật kình
chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồn trong sáng, nên người biết tu
theo, lòng sẽ mở rộng thương yêu bảo học lẫn nhau.
Vì
thế, ba môn Huệ học đều đặt căn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính
mình". Nắm vững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định
phán xét không bị sai lầm.
Tác giả bài viết: HT Thanh Từ
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự