Nhưng
nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con
người, đem đến sự an lạc thân tâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi
lúc, mọi nơi.
Y
pháp bất y nhân:
Nghĩa
là: Nương tựa, y cứ vào Pháp chứ không nương tựa người giảng Pháp, nói Pháp.
Bởi vì, trong thực tế người có duyên được các Tổ, Thày thu nhận để truyền Pháp
nhằm duy trì mạng mạch Phật pháp trường tồn. Hoặc các Pháp được thu nhận qua
Kinh sách, các tài liệu truyền giáo của người xưa để lại được người thông tuệ
thu nhận, người ấy lại có năng khiếu “sư phạm”, mặc dù trong đời sống thực của
vị ấy chưa được mẫu mực hoặc chưa phải người tiêu biểu trong Thiên môn, có
những biểu hiện về tham, sân, si chẳng hạn. Trong trường hợp đó nếu ta cứ cố
chấp, cứ định kiến với “cái ta” của vị ấy, không nghe Pháp của vị ấy nói thì ta
đã đánh mất một cơ hội nghe Pháp.
Phải
biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi
“Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo, tức
thu nhận tinh hoa, nhận ra con đường chân lý. Ta nghe Pháp thì cũng không nhất
thiết phải biết “lý lịch trích ngang” về đạo đức của người giảng Pháp là các
bậc thầy có đời sống mẫu mực, phạm hạnh, gọi là “có uy đức tự tại” thì sự hiện
thân của vị Thầy đó đã là một “Thân giáo” rồi.
Ảnh
hưởng trực tiếp Thân giáo của vị ấy sẽ cảm hoá và thu phục dễ dàng với những ai
được gần gũi, tiếp cận, kể cả bậc ác vương… Thiết nghĩ, đời nay cách Phật đã hơn
25 thế kỷ rồi, Chư Thánh cũng dần khuất bóng. Bây giờ chỉ còn lại Pháp thân và
Báo thân Phật mà thôi. Ấy cũng là may mắn cho loài người, cho những ai biết đến
dấu chân Phật vẫn thường còn trong đời sống văn minh ở Thiên niên kỷ thứ ba
này.
Thật
vậy, bởi Pháp thân và Báo thân của Phật là thân chân lý tuyệt đối, là Chân
thân, tức là thân không sinh diệt, và cũng là thân ứng hiện phúc đức, trí tuệ.
Còn như Hoá- thân Phật, tức nhục thân là thân sinh diệt đương nhiên bị tan hoại
theo lý Vô thường. Cũng từ hiểu biết về “Phật tam thân” này ta thấy thực tập
nương tựa Pháp quan trọng ngần nào. Lịch sử Phật giáo còn ghi lại: Trước giờ
phút sắp nhập Đại Niết- Bàn, Phật Thích Ca đã từ chối lãnh đạo Tăng đoàn và Tôn
giả A-nan đã thỉnh Phật cho lời Di giáo. Đức Phật đã để lại lời dặn cuối cùng:
“Hãy nương tựa Pháp, Pháp lãnh đạo…”
Như
vậy sự nương tựa Pháp là điều chúng ta luôn ghi nhớ và thực hành.
Y
liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh
Kinh
Liễu nghĩa là Kinh nói về chân lý tuyệt đối. Còn Kinh Bất liễu nghĩa là Kinh
phương tiện, chỉ nói về chân lý tương đối. Nhưng cả hai đều là sự thật căn bản
nên được gọi là “Nhị đế”.
Sự
thật tương đối cũng là sự thật đấy nhưng nó không sâu sắc, nó không phải sự
thật tột cùng, nhưng nó cũng quan trọng để từ đó người học, người tu từng bước
nhận thức thực tại, là phương tiện không thể thiếu để thăng hoa tri thức trên
bước đường ngộ đạo. Còn sự thật tuyệt đối cũng hàm chứa sự thật tương đối với
liễu nghĩa, Phật học gọi là Chân đế, để phân biệt với sự thật tương đối gọi là
Tục đế.
Ví
dụ những sự hiểu biết về “sắc không” của nhà Phật qua hai câu thơ của Từ đạo
Hạnh (Đức Thánh Láng):
“Có
thì có tự mảy may
Không thì cả thế giới này cũng không”.
Cái
“có” của vật chất hiện hữu dẫu nhỏ như vi trần cũng là có, dẫu chỉ “mảy may”
thôi. Đó là sự thật tương đối (Tục đế). Còn sự thật tuyệt đối là sự thật “muôn Pháp
do Duyên sinh” chịu tác động của Vô thường mà “Cả thế giới này” cũng không nằm
ngoài quy luật của sự hoại diệt kia. Nên nó là Chân đế, bởi “cả thế giới này
cũng không” chính là Liễu – nghĩa là sự thật tuyệt đối.
Y
nghĩa bất y ngữ
Nghĩa
là, căn cứ vào nghĩa lý chứ không phải câu chữ. Đừng mắc kẹt vào câu chữ, ngôn
từ, nó chỉ là phương tiện nhằm “đánh thức” tuệ giác chứ nó không phải là tụê giác.
Chuyện du sĩ Lepali thâm ngộ giáo Pháp, từ bỏ thày cũ của mình xin quy y, Đức
Phật đã khuyên vị ấy nên suy nghĩ cho kỹ, bởi đạo Phật là đến để thấy, không
phải đến để tin. Chỉ sau khi thực sự sống và thấy nó an lạc, hạnh phúc thì hãy
tin theo. Đức Phật còn bảo rằng: “Đừng vội tin chỉ vì tôn kính bậc đạo sư”. N
Lời
dạy có tinh thần phê phán này là khởi điểm đầu tiên khai mở tuệ giác cho mỗi cá
nhân con người chúng ta. Bởi, lời nói hay chữ viết chỉ là ý niệm của sự thật,
không là tự thân của sự thật ví như tấm bản đồ thành phố không phải là thành
phố, nhưng nhờ tấm bản đồ ấy ta mới “tiếp cận” thành phố dễ dàng. Câu nói người
xưa: Ý tại ngôn ngoại; hay thi hào Nguyễn Du bảo: “Linh văn bất tại ngữ ngôn
khoa” là điều khẳng định: Văn hay không phải ở ngôn ngữ; nên cái “hay” đều là
“siêu ngữ nghĩa” cả. Đó là mượn lời để tỏ ý, được ý thì quên lời. Lời thì “chật”
(ít về số lượng) nhưng ý phải “rộng” (phải hàm chứa ý nghĩa sâu rộng, thậm thâm
vi diệu).
Văn
hào Nhật Bản Kawabata Yasunari (1899- 1972) giải NOBEL văn chương 1968 từng
nói: “Kinh Phật là tác phẩm văn chương vĩ đại nhất của nhân loại”. Ấy vậy mà,
những ngày cuối cùng của Đức Phật, trước khi ngài Đại Niết Bàn Ngài đã tuyên nói
với các đệ tử cùng các đại chúng rằng: “Trong suốt 45 năm Đức Như Lai không nói
một chữ”. Ngài không muốn người sau bị kẹt vào những lời Ngài từng nói. Bởi
“chí đạo vô ngôn”.
Sau
Phật, Lão Tử cũng xác quyết chân lý này trong Đạo Đức Kinh: “Đã nói thành lời
thì còn gì là đạo nữa!”. Nhưng dẫu “Bất y ngữ” là không nương tựa vào ngôn ngữ,
nhưng lại cũng không thể bỏ “tục” về “chân”; mà phải nương “ngữ” để sáng tỏ
“nghĩa”. Ví như các Pháp thoại là lời Kinh cũng chỉ là chân lý ảnh tượng mà
chất liệu là ngôn ngữ, ý niệm để người học, người tu thấy được chân lý bản chất
trực tiếp từ kinh nghiệm nơi mình, chứ không phải “lấy” từ kinh nghiệm người
khác, bởi nghiệp lực mỗi người không giống nhau, nên sự chứng đạt cũng khác
nhau. Cho nên giáo dục Phật giáo được gọi là giáo dục “đánh thức chứ không phải
nhồi nhét kiến thức hay sự áp đặt”.
Y
trí bất y thức
Nghĩa
là: Nương tựa vào trí tụê mà không nương tựa vào kiến thức.
Trí
tuệ là hai danh từ ghép dung thông nhau, tuy nhiên có đôi chút khác nhau. Đạt
tới sự tướng hữu vi là Trí- Nghĩa là mọi sự việc hiện bày rõ ràng, có sự phân
biệt, tính đếm; nên nó quyết đoán. Đạt tới sự lý vô vi gọi là Tuệ- đó là sự
thông tỏ, mà không còn phân biệt, tính đếm.
Do
vậy: Trí tạo tác dụng cho Tuệ. Tuệ bao hàm, thông đạt tác dụng của Trí. Cho nên
gọi đủ phải là Trí Tuệ. Và chỉ có “Y Trí”, tuệ giác mới phát sinh, tức cái
“thấy” khách quan được thông tỏ tận cùng; ở đó không có tham, sân, si bởi nó là
Thật tướng tức Chân tướng. Vì thế đây là chỗ đáng được nương tựa, y cứ, để học
hiểu, tăng ích trí tuệ. Còn “Bất y thức”, tức không nên nương tựa vào kiến
thức, hoặc là đối tượng của nhận thức. Chức năng của “Thức” là sự phân biệt,
phân tích, phân loại. Sự nhận biết đối tượng của nhận thức được thông qua các
giác quan cụ thể như: mắt, tai, mũi, lưỡi…Nó là trung gian của suy luận và khái
niệm nên đương nhiên nó hàm chứa tham, sân, si…khác với Trí tuệ là trực giác
nên không có tam độc này.
Tóm
lại, trong giáo pháp Tứ Y, Đức Phật đưa ra 4 cặp phạm trù; trong mỗi cặp có hai
“đối tượng” để tìm hiểu, đó là “y” tức sự nương tựa và “Bất y” là không nương
tựa, không y cứ vào đó, nhưng cả hai lại đều có tính căn bản nên gọi là “Nhị
Đế”.
Và
cũng từ cái “bất khả phân” ấy gợi nhắc chúng ta về sự tu của chính mình. Đó là
tu trong ngũ uẩn thân. Từ thân ngũ uẩn có đủ cả tham, sân, si ấy mà thăng hoa
tri thức, chứng đạt Giới- Định- Tuệ của Tam Vô Lởu học không thể khác được.
Nguồn tin: Pháp Vương Tử
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự