"Biển khổ mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió
Rốt cuộc rồi trong bể thảm thôi"
Thật
vậy trong cái biển khổ mênh mông ấy, chúng ta chỉ là những "khách
trần" lai vãng, đến rồi đi, và nếu chết vẫn chưa hết, ta sẽ phải tiếp tục trôi
lăn trong "biển khổ" sinh tử luân hồi này. Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu
từng nhắc nhở rằng: "Vô thường già, bệnh, chết không hẹn trước với ta",
tức là cái chết sẽ đến với ta bất cứ giờ phút nào. Một điều quan trọng mà tất
cả chúng ta cần phải khắc trong lòng là sau khi chết, thần thức của ta sẽ không
mất, mà nó được lưu chuyển sang một đời s?ng khác.
Theo giáo lý nhà Phật, sau
khi chết nếu ta chưa đạt Ðạo, giác ngộ và giải thoát, ta sẽ có thể tái sinh,
đầu thai vào một trong sáu cõi giới: Cõi trời, Cõi người, A-tu-la, Ðịa ngục,
Ngạ quỹ và Súc Sanh. Kết quả được thác sanh vào cõi nào đã được ta thiết lập
ngay trong đời sống vừa qua, có nghĩa là trong đời sống hiện tại hôm nay, chính
ta đang tạo dựng một đời sống ngày mai của ta vậy. Do đó chúng ta phải chuẩn bị
mọi thứ cần thiết để có thể mang theo làm hành trang cho riêng mình trong cuộc
hành trình vô tận đang chờ đợi ta ở phía trước.
Ta phải chuẩn bị điều gì?
Ðó
là một câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Tuy nhiên, như ở đầu tập sách này, các
bậc Thầy người Tây Tạng đã khuyên dạy chúng ta rằng: phương pháp tốt nhất để
chuẩn bị cho cái chết là mỗi người nên làm điều lành và tránh làm điều ác trong
suốt cuộc đời mình. Lời dạy này đã cho chúng ta hiểu rằng, tất cả những nghiệp
thiện và nghiệp ác mà mình tạo ra trong suốt cuộc đời, từ lúc mới sinh đến khi
nhắm mắt lìa đời, sẽ là hành trang mà ta sẽ phải mang theo sau khi ta trút hơi
thở cuối cùng ở kiếp này và chính nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trong các đời
sống vị lai.
Do
thấy rõ được cảnh khổ của chúng sinh trong sáu cõi giới luân hồi này, mà Bồ tát
Ðịa Tạng đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta về những quả báo khổ đau mà chúng ta
sẽ phải gánh chịu ở tương lai, nếu ta phạm phải ở kiếp này:
Ngài
dạy rõ "Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật, quả báo sẽ bị chết yểu; nếu người
trộm cướp, sẽ bị quả báo nghèo cùng khốn khổ; nếu người tà dâm (không chung
thủy với vợ hoặc chồng), sẽ bị quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương; kẻ
nói lời thô ác, sẽ bị quả báo quyến thuộc hay kình chống nhau; nếu kẻ hay khinh
chê, sẽ bị quả báo không lưỡi hay miệng lở; nếu người thường nóng giận, sẽ bị
quả báo thân hình xấu xí; nếu người có tánh bỏn xẻn, sẽ bị quả báo cầu muốn
không được toại nguyện; nếu người thường tổ chức săn bắn, sẽ bị quả báo kinh
hãi điên cuồng, mất mạng; nếu kẻ trái nghịch với cha mẹ, sẽ bị quả báo trời đất
tru lục; nếu người đốt núi rừng cây cỏ, sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết; nếu
cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở ác độc, sẽ bị quả báo thác sinh trở lại hiện đời sẽ bị roi
vọt; nếu người dùng lưới bắt chim non, sẽ bị quả báo thân quyến chia lìa; nếu
người hủy báng Tam Bảo, sẽ bị quả báo đui, điếc, câm, ngọng; nếu người hay
khinh chê giáo pháp, sẽ bị quả báo ở mãi trong ác đạo; nếu kẻ lạm phá của
Thường trụ, chùa chiền, sẽ bị quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục; nếu kẻ làm
ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già, sẽ bị quả báo ở mãi trong
loài súc sanh; nếu kẻ dùng nước sôi, hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật, sẽ
bị quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau; nếu kẻ phá giới phạm trai, sẽ bị
quả báo làm cầm thú đói khát; nếu người phung phí, phá tổn của cải một cách phi
lý, sẽ bị quả báo tiêu dùng thiếu hụt; nếu kẻ thường tự cao kiêu mạn, sẽ bị quả
báo hèn hạ, bị người sai khiến; nếu kẻ đâm chọc gây gổ, sẽ bị quả báo không
lưỡi hay trăm lưỡi; nếu kẻ tà kiến hay mê tín dị đoan, sẽ bị quả báo thọ sanh
vào chốn hẻo lánh..." (lược theo Phẩm thứ hai, Kinh Ðịa Tạng, bản dịch của
HT Trí Tịnh).
Nếu
ta biết rõ những nguyên nhân và kết quả trên, ta phải cố gắng tránh tạo những
ác nghiệp(tham lam, sân hận, si mê, giết hại sinh vật, trộm cắp, tà dâm, nói
dối, uống rượu...), và nỗ lực làm những điều thiện (không tham lam, không nóng
giận, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, cúng dường, phóng
sinh...) để đem an lạc, hạnh phúc cho mình và cho người. Bài học công bằng mà
tất cả chúng ta đều thuộc lòng, đó là, nếu mình đem hạnh phúc cho người, thì
mình sẽ được an vui, ngược lại, đem khổ đau cho người, thì chính mình sẽ chịu
sự bất hạnh. Niềm hạnh phúc và an lạc hoặc sự bất hạnh và khổ đau , đã, đang và
sẽ được chính ta tạo ra và chính ta thừa hưởng ngay trong đời sống này cũng như
sau khi chết.
Những
điềm báo trước khi chết:
Những
người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc, tự tại, thong dong giữa hai bờ sống chết,
họ có thể tái sinh về bất cứ cõi giới nào họ muốn. Còn chúng sanh mê muội, phàm
phu tục tử đều phải tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết, phải chịu sự
dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về cảnh giới thích ứng với nghiệp mà mình đã
gây tạo. Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định mệnh, tức là cái
đã sắp đặt sẵn mọi chuyện, mình phải đi theo cái có sẵn ấy. Ở đây, không phải
vậy, người Phật tử tin rằng mình là chủ nhân của chính mình, tuy nhiên, một khi
mình không làm chủ được mình để cho ác nghiệp đã được xảy ra, thì chính cái
nghiệp ấy sẽ trở lại điều khiển mình. Do đó người Phật tử hãy thận trọng trong mọi
hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình, từ nơi đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và
cũng từ nơi đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau.
Theo
kinh điển nhà Phật, một người trước khi chết có những điềm báo trước, có thể
tùy theo mỗi người mà có cảm thọ khác nhau về cảnh giới thiện hay cảnh giới ác,
và những điềm này sẽ giúp cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người quá cố.
- Những điềm lành báo trước sẽ có thể
sinh về Tịnh độ:
Tâm
hồn không bị bối rối
Biết trước ngày giờ chết
Tâm niệm chân chánh không mất
Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần áo.
Tự mình niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm thầm
Ngồi ngay thẳng, chắp tay niệm Phật mà chết
Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà
Có hào quang sáng soi vào thân thể
Nhạc trời vang dội giữa hư không
Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại.
- Những điềm báo trước sẽ có thể thác
sinh lên cõi trời:
Móng
lòng thương mến
Phát khởi thiện tâm
Lòng thường vui vẻ
Chánh niệm được rõ ràng
Thân thể không bị hôi hám
Sống mũi không xiên xẹo
Tâm không giận dữ
Tâm không luyến ái tài sản, vợ, chồng, con, dòng họ
Mắt luôn trong sáng
Ngửa mặt lên trời và mỉm cười.
- Những điềm báo trước sẽ có thể tái
sinh trở lại cõi người:
Ðến
khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành
Thân không đau khổ
Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha mẹ
Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em và bầu bạn
Ðối với việc lành dữ nhận rõ không lầm loạn
Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh
Biết rõ bà con bạn bè giúp đỡ cho mình
Thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng
Dặn dò mọi việc trong nhà trước khi chết
Sanh lòng chánh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến đối diện quy y.
- Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa
vào địa ngục:
Gặp
phải tình trạng con cái và bà con đều nhìn kẻ sắp chết bằng đôi mắt ghét bỏ
Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ mó hư không
Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng không tùy thuận
Người sắp chết kêu gào than khóc
Ði ra đại tiện, tiểu tiện mà không hay biết
Nhắm nghiền đôi mắt
Thường hay che úp mặt mày
Nằm nghiêng mà ăn uống
Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám
Gót chân, đầu gối luôn run rẩy
Sống mũi xiên xẹo
Mắt bên trái hay động đậy
Hai mắt đỏ ngầu
Úp mặt mà nằm
Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống đất.
- Những điềm báo trước sẽ có thể thác
sinh vào cõi giới ngạ quỹ:
Ưa
liếm môi miệng
Thân nóng như lửa
Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống
Mắt thường hay trương lên mà không nhắm
Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ.
Ðầu gối bên phải lạnh trước
- Những điềm báo trước sẽ có thể thác
sinh vào loài súc sanh:
Yêu
mến vợ con, đắm đuối không bỏ
Ngón tay và ngón chân đều co quắp
Khắp trong thân mình đều toát ra mồ hôi
Tiếng nói ra khò khè
Miệng thường ngậm đồ ăn.
- Hộ niệm cho người hấp hối:
Nếu
người hấp hối đang ở trong bệnh viện, người thân nên đến chùa (hoặc điện thoại)
thỉnh quý Chư Tăng Ni và Ban Hộ Niệm đến giường bệnh để tiếp dẫn cho người mất.
Nếu gia đình không quen biết chùa nào, có thể tìm đến khoa Chăm sóc về tinh
thần (Pastoral Care - các tu sĩ, giáo sĩ các Tôn giáo chính, được mời vào làm
việc toàn thời hoặc bán thời tại nơi đây. Phân khoa này cũng có một Trung Tâm
Cầu Nguyện (
Nếu
không cung thỉnh được quý Thầy, Cô đến hộ niệm, hoặc nhà ở xa chùa, thì có thể
mở băng cassette niệm danh hiệu Phật cho người hấp hối và con cháu trong nhà
đứng xung quanh giường bệnh để niệm lớn câu: Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà
Phật, niệm liên tục cho đến lúc người ấy trút hơi thở cuối cùng, chứ không được
khóc kể, sầu thảm.
Nếu cứ khóc than như thế sẽ khiến cho thần thức của người
sắp ra đi quyến luyến mãi không rời khỏi thân xác, hoặc nếu có rời khỏi thi thể
thần thức người ấy vẫn quanh quẩn trong nhà chứ không thể siêu thoát được. Một
người thân hoặc người lớn tuổi trong gia đình nên đến bên cạnh người hấp hối
nhắc nhở họ về nguyên lý vô thường: " Cõi đời là huyễn ảo, vô thường, mọi
sự vật hiện tượng sinh rồi diệt, hội họp rồi chia ly, xin người đừng quyến luyến
nữa, hãy xả bỏ tất cả và ra đi trong thanh thản".
Sau
khi người bệnh vừa tắt thở: người thân nhất nên điều chỉnh thi thể trở lại cho
ngay ngắn, mọi động tác đều phải thật nhẹ nhàng, tránh đụng chạm mạnh đến thi
thể, vì lúc ấy thần hồn của người chết chưa ra khỏi thi thể, dễ có cảm giác đau
đớn và khó chịu, chính sự khó chịu ấy sẽ khiến cho thần thức của người thác
sinh vào cõi ác xấu. Cho nên phải cố gắng càng hạn chế chạm đến thi thể người
vừa tắt thở càng tốt.
Ba hoặc năm tiếng đồng hồ sau khi tắt thở, gia đình có
thể dùng nước ấm, nước hoa hoặc rượu cồn (alcohol) để tắm cho người chết và
thay quần áo mới. Tất cả nữ trang phải được tháo ra, để ngăn ngừa kẻ tham lam
có thể xâm phạm đến tử thi. Nếu là tín đồ Phật giáo nên mặc lót bên trong một
bộ đồ màu trắng, mới và sạch, bên ngoài mặc áo tràng màu nâu hoặc màu lam và
đắp một cái mền Quang Minh bên trên.
- Tang sự:
Lễ
tang được bắt đầu sau khi người thân của mình qua đời, có nhiều việc cần thiết
phải làm. Những người có trách nhiệm phải thật bình tĩnh mới có thể giải quyết
được công việc. Nếu người mất theo tín ngưỡng nào thì nên tôn trọng niềm tin
của họ mà tổ chức tang lễ theo nghi thức của tôn giáo ấy. Riêng Phật tử, nên tổ
chức theo nghi lễ của Phật giáo. Nghi lễ này được diễn ra gọn gàng, đơn giản,
trang nghiêm, ít tốn kém, và không theo tập tục mê tín của thế gian, như đốt
vàng mã, lầu đài, nhà kho...
Công
việc đầu tiên là một hay hai người trong gia đình phụ trách liên lạc với quý
Thầy để chọn ngày giờ thích hợp cho việc tẩm liệm, phát tang, di quan và an
táng, một mặt liên lạc với Sở Mai táng, để lo mua quan tài, đặt xe tang, nơi an
táng... Những người còn lại trong gia đình chia nhau mỗi người mỗi việc, thông
báo cho thân nhân ở xa, viết cáo phó gởi báo, đài, quét dọn nhà cửa, bàn thờ
Phật, Tổ Tiên, sắm sửa đèn nến, hương hoa, trang hoàng bàn vong để thờ phụng
người quá cố.
Bàn
thờ Phật cần được trần thiết trang nghiêm với một hình hoặc tượng Phật đặt ngay
ngắn ở giữa, hai chân đèn, lư hương, đĩa trái cây, bình hoa, hai ly nước
trong...
Bàn
thờ Vong, cũng phải trang hoàng cho đẹp đẽ với cặp chân đèn, đĩa trái cây, bình
hoa, ba ly nước, một bài vị (gồm có tên tuổi, ngày sinh, ngày mất) do Thầy
viết. Và đặc biệt là di ảnh của người chết, phải chọn một tấm hình đẹp, rõ ràng
của người quá cố để thờ.
-
Tẩm liệm, phát tang, cúng cơm và an táng:
Ðến
thời điểm thích hợp đã định trước, quý Thầy Cô, ban Hộ Niệm cùng tang quyến và
bạn bè thân hữu vân tập trước bàn thờ Phật để tụng Kinh và cầu nguyện cho vong
linh người quá cố. Sau khi nắp quan tài đậy lại là lễ Phát tang (còn gọi là lễ
Thành phục). Tất cả con cháu đều quỳ ngay thẳng trước linh đài của người mất.
Quý Thầy tụng Kinh và sái tịnh vào khăn tang, rồi phát tang cho tang quyến. Mỗi
người đều lạy hai lạy và nhận chiếc khăn màu trắng, rồi chít khăn lên đầu và
mặc quần áo tang.
Theo
tục lệ truyền thống, người con gái chỉ đeo khăn tang, quần tang mà không có áo.
Người con rể, chỉ quấn khăn tang là đủ. Riêng hàng cháu, chắt, trên khăn tang
có đính thêm một miếng vải nhỏ hình tròn màu xanh hay màu đỏ tùy theo bên nội
và bên ngoại. Vợ chồng để tang cho nhau, chỉ cần bịt một khăn tang là đủ.
Sau
khi lễ phát tang là lễ cúng cơm (tiến linh). Tất cả nên cúng thức ăn chay, cúng
nước trà thay vì cúng rượu. Tiếp đó là lễ tụng kinh cầu siêu cho hương linh.
Trong tang lễ, phần quan trọng nhất là tụng kinh cầu nguyện cho thần hồn người
chết siêu thoát, chứ không phải chú trọng về hình thức cúng kiến, đờn trống,
nhạc Tàu, nhạc Tây.... Những hình thức bề ngoài chỉ cốt để làm nở mặt nở mày
của tang quyến đối với người ngoài, chứ không ảnh hưởng gì đến thần thức người
quá cố.
Ðến
ngày an táng linh cữu, tang quyến cùng bè bạn thân hữu cùng quý Thầy Cô và ban
Hộ niệm tiễn đưa linh cữu đến nơi an táng (địa táng hay hỏa táng tùy theo sự
chọn lựa của người quá cố), tất cả nên thành tâm niệm Phật để tiếp dẫn vong
linh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Sau
lễ an táng, chủ nhà rước vong linh về nhà hoặc chùa để làm lễ An Sàng, tức là
lễ an vị vong linh và di ảnh của người quá cố. Có nhiều người hiểu lầm lễ này
gọi là lễ ăn sàng, nên bắt buộc tang quyến phải tổ chức tiệc tùng để được ăn
uống. Ðây là một sự thật đáng buồn.
Sau
lễ An sàng, là cúng tuần thất (7 ngày sau khi qua đời), cúng Bách nhật (100
ngày), cúng Tiểu tường (giáp năm, 365 ngày) và cúng Ðại tường (ba năm xả tang,
còn gọi là mãn tang hay mãn khó, tức là đúng 1095 ngày), rồi từ đó mỗi năm cúng
lễ giỗ tưởng niệm (cúng đúng vào ngày mất gọi là Chánh kỵ, trước ngày mất gọi
là Tiên Thường). Và nếu gia đình tang quyến có điều kiện nên tổ chức lễ Trai
Tăng cúng dường, bố thí, phóng sanh các loài vật, đi lễ Phật và cúng dường 10
chùa, để hồi hướng công đức ấy cho vong linh người quá cố, giúp họ tái sinh vào
cõi giới an lành.
Tóm
lại, theo giáo lý nhà Phật, chết chưa phải là hết mà còn nhiều vấn đề khác nữa,
nếu người quá cố chưa giác ngộ giải thoát, chưa giải quyết được vấn đề sinh tử
ngay trong kiếp sống hiện tại này, thì còn vô số đời sống khác đang đợi chờ họ
ở phía sau.
(1) ĐOÀN NHƯ KHUÊ: (hiệu: Hải
Nguồn tin: Sách Chết & Tái Sinh
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự