Chúng
Tỷ-kheo là Chúng đệ tử gần gủi nhất, Chúng thừa đương Phật pháp để truyền bá
giáo hóa cho chúng sinh, Chúng mang hình dáng của Phật làm gương mẫu ở thế
gian, Chúng mà trong ba tháng an cư kiết hạ đã viên mãn và kết thúc vào ngày
rằm tháng bảy âm lịch.
Thông thường, khi chư Tăng thọ giới pháp xong là tu
niệm, nhưng vì Phật sự đa đoan nên sự tu niệm ấy không được chuyên cần bằng ba
tháng an cư. Ba tháng an cư theo Luật Phật chế, Chúng Tỷ-kheo phải cấm túc ở
yên, hạn chế tối đa sự đi lại, một là vì phong thổ Ấn Độ lúc bấy giời mùa hạ là
mùa mưa, các loại côn trùng sinh sản ra nhiều, mà chúng Tăng đi khất thực sẽ
dẫm đạp lên nhiều loại côn trùng, làm tổn thương đến lòng từ bi tế vật.
Thứ hai
là, chúng Tăng đi khất thực thì y, áo, bình bát sẽ bị thấm ướt, mất trang nghiêm,
nên thế gian có phần chê trách. Vì vậy, nên đức Phật dạy Chúng Tỷ-kheo trong ba
tháng mùa mưa phải cấm túc an cư, hạn chế việc đi ra ngoài để tập trung vào sự
tu niệm, củng cố sự sống trong thanh tịnh hòa hợp, cảnh tỉnh thân tâm để tinh
tấn trong con đường đạo hạnh.
Cho nên một khi đệ tử của Phật tu hành trong ba
tháng viên mãn thanh tịnh, kết thúc ba tháng an cư, đức Phật vui mừng lắm. Mừng
cho đệ tử của mình đã hoàn thành ba tháng an cư thanh tịnh, cho nên gọi là ngày
Phật vui mừng.
Thứ
hai, ngày Tăng Tự tứ. Ngày chúng Tăng sau ba tháng an cư tu tập nghĩ rằng: Tuy
mình đã gắng tu như thế nhưng không chắc đã tránh hết lỗi lầm, nên ngày rằm
tháng bảy cùng nhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đức thanh tịnh hơn
mình chỉ lỗi lầm cho. Nếu mình tự thấy mắc phải lỗi lầm đó, phải phát lộ sám
hối. Đó là một việc hết sức đặc biệt trong ngày Tự tứ.
Thông
thường, mỗi khi có lỗi là tìm cách né tránh, tìm cách che dấu kẻo sợ người khác
biết thì xấu hổ, hoặc sợ nếu biết lỗi của mình thì lần sau mình không làm lại
được nữa, cho nên thường thường là che dấu, không bộc lộ, trừ khi có ai hỏi đến,
kẹt lắm mới nói tới có phạm, có vấp lỗi nọ lỗi kia.
Hoặc giả, có phát lộ sám hối chăng thì cũng phát lộ âm thầm trước ngôi Tam Bảo, chớ ít khi công khai nhờ người chỉ lỗi cho mình ra giữa Đại chúng. Nhưng theo đạo Phật, ba tháng hạ an cư xong rồi, đức Phật dạy hàng Tỷ-kheo phải cầu người khác chỉ lỗi cho mình, nghĩa là không phải để đợi người khác chỉ mà tự mình phải cầu người khác tự do chỉ cho, mình phải đối trước người đó mà thưa:
"Thưa Đại đức, ngày nay
chúng Tăng Tự tứ, tôi cũng Tự tứ, tôi có điều gì sai phạm mà Đại đức thấy, nghe
hoặc nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếu tôi thấy có phạm thì xin như
Pháp sám hối." Nói như vậy ngầm ý rằng: Tôi không phàn nàn, không thắc mắc
và tôi không có oán trách chi Đại đức hết! Đó chính là ý nghĩa mà mình phát tâm
cầu mong được thanh tịnh, không có chút nào che dấu, thành tâm cầu người khác
tự do nói không e dè chi hết, nếu thấy có lỗi thì cứ chỉ cho.
Đó là một thái độ
rất cao thượng cởi mở để làm cho mình hết sạch tội lỗi. Vì vậy trong ngày đó
gọi là ngày Tăng Tự tứ. Tự tứ nghĩa là cầu người khác không ngần ngại chỉ lỗi
mình ra, để cho mình biết mà sám hối, nên gọi là Tăng Tự tứ.
Thứ
ba, ngày Tăng Thọ tuế. Thọ tuế là nhận tuổi. Theo thế gian, nếu cha mẹ sinh ra
đủ năm 12 tháng thì mới gọi là tròn một tuổi. Nhưng trong Luật Phật chế, hàng
xuất gia thọ giới của đức Phật không tính tuổi theo năm tháng kiểu thế gian
trên - mà tính tuổi theo hạ lạp. Nghĩa là năm nào có an cư kiết hạ được trọn vẹn
thì được tính một tuổi. Thí dụ: Vị nào an cư kiết hạ từ 15-4 âm lịch đến 15-7
âm lịch là mãn hạ, như vậy được tính một năm hạ, tức một tuổi hạ. Ai đã thọ Cụ
túc giới nhưng không an cư thì không tính tuổi hạ, còn ai kiết hạ an cư liên tục
thì được tính nhiều tuổi hạ.
Cho
nên chúng ta thường nghe ở các chùa khi đọc tiểu sử của một vị Tăng nào viên
tịch, thường nhắc đến tuổi đời và hạ lạp. Thí dụ vị đó 80 tuổi đời và 60 hạ
lạp, nghĩa là vị đó có tuổi cha mẹ sinh là 80 năm, còn tuổi hạ là 60 hạ lạp. Hạ
lạp được tính và ngày rằm Tự tứ, sau khi đã tu hành tròn ba tháng hạ.
Tuy nhiên,
cũng có trường hợp, đúng theo Luật Phật chế, 20 tuổi thì được thọ giới Tỷ-kheo,
nhưng vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mới thọ giới Tỷ-kheo và sau khi thọ giới
mỗi năm đều có kiết hạ. Nếu vị ấy viên tịch vào tuổi 70, thì vị ấy được 45 tuổi
hạ và 70 tuổi đời.
Nếu một vị Tỷ-kheo thọ giới rồi mà không an cư lần nào cả
thì coi như vị ấy hoàn toàn không có tuổi hạ, khác với cha mẹ sinh ta ra, dù ta
có làm hay không làm gì đi nữa hoặc giả có ngủ cả năm đi nữa thì tròn một năm
cũng vẫn được tính tuổi từng năm một. Trái lại, vị Tỷ-kheo thì phải có kiết
giới an cư thì mới nhận tuổi, còn không an cư, thì không tính hạ lạp cũng gọi
là giới lạp, pháp lạp. Đó là ý nghĩa của ngày Phật hoan hỷ, Tăng Tự tứ và Tăng Thọ
tuế.
Thứ
tư, ngày Vu Lan xá tội vong nhân. Vu Lan là ngày cầu siêu độ cho tiền nhân quá
cố của người con Phật. Tích Vu Lan bắt nguồn từ việc báo hiếu của Tôn giả
Mục-kiền-liên. Tích này được chép trong kinh Vu-lan-bồn. Chữ Vu-lan-bồn phiên
âm từ chữ Sanskrit (Phạn) là Ulambana.
Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giải đảo huyền
(Giải cái tội bị treo ngược). Câu chuyện trên ý nói rằng, những người nào tạo
tội ác thì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, chịu sự hành hạ
thống khổ cùng cực giống như người bị treo ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi
ngày Vu Lan đến, Phật tử thường đem tâm chí thành, chí hiếu sắm sửa vật dụng
cúng đường Tam Bảo để cầu nguyện cho thân nhân, tiền vong của mình thoát khỏi
cảnh khổ đau cùng cực y như giải tội bị treo ngược.
Như
vậy, ngày Vu Lan là ngày của Phật tử đền ơn đáp nghĩa bằng cách đến chùa cầu
thỉnh chư Tăng sau ba tháng ăn cư thanh tịnh, chú nguyện cho vong nhân của mình
thoát khỏi cảnh đọa đày tăm tối của địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh, đồng thời
cầu nguyện cho tất cả người khác cũng thoát khỏi tội khổ đau cùng cực như Tôn
giả Mục-kiền-liên đã làm khi cứu mẹ.
Tác giả bài viết: HT Thiện Siêu
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự