Ngoài
ra Tôn giả còn chứng được tuệ nhãn (trong ngũ nhãn là nhục nhãn, thiên nhãn,
tuệ nhãn, pháp nhã và Phật nhãn) tức là con mắt, thấy được sự vật và tự tính
của nó. Chúng sinh chỉ có con mắt thịt, chỉ thấy những cái trước mắt, vừa tầm,
còn những cái xa quá, nhỏ quá, lớn quá không thấy được.
Khi Tôn giả chứng được
lục thông và tuệ nhãn liền nhớ đến cha mẹ mình, Tôn giả dùng tuệ nhãn nhìn khắp
bốn phương, xem vong mẫu của mình hiện đang ở đâu? Khi thấy vong mẫu của mình
đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức đau khổ và đói khát, Tôn giả buồn bã vô cùng.
Tôn giả liền bưng bát cơm đến dâng mẹ, nhưng mẹ Tôn giả vì tâm xan lẫn từ kiếp
trước quá nặng nề khởi lên, sợ người khác trông thấy mà đến giành giựt hoặc xin
bớt, cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn.
Nhưng cơm chưa tới
miệng đã hóa thành than lửa không thể nào ăn được. Tôn giả thấy vậy, vô cùng
đau xót, không biết làm sao cứu vớt mẹ được, bèn về bạch với đức Phật. Ngài
dạy: Tội lỗi của mẹ ngươi, dù có thần thông phép lạ của hàng thiên thần địa kỳ
cũng không cứu được đâu! Duy chỉ có dùng thần lực của chúng Tăng sau ba tháng
an cư, tinh tấn tu hành thanh tịnh tập trung chú nguyện cho, may ra mới chuyển
hóa được nghiệp lực của mẹ ngươi, thì mẹ ngươi mới được thoát khổ cảnh mà thôi.
Nghe
vậy, Tôn giả Mục-kiền-liên thưa với đức Phật: Bạch Thế Tôn, con nay làm sao mà
mời chư Tăng mười phương cúng dường một lúc như vậy được? Đức Phật dạy rằng:
Trong ngày Vu Lan là ngày Tự tứ của chư Tăng, ông nên sắm các thứ cúng dường
chư Tăng trong ngày Tự tứ, ngày đó dầu các vị trong thiền định, hay thọ hạ kinh
hành, hay hóa độ nhơn gian, cũng tập trung lại để Tự tứ và cầu nguyện cho mẹ
ngươi, thì mẹ ngươi sẽ được thoát khổ, rồi Tôn giả thực hành theo lời dạy của
đức Phật và chính trong ngày đó, mẹ Tôn giả thoát được cảnh ngạ quỷ mà hưởng
phước báu chư Thiên.
Do
vậy, Tôn giả hết sức vui mừng và thưa với đức Thế Tôn, nếu sau này có chúng
sanh nào muốn phát tâm hiếu để mà cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ được vui thì
có làm như con được không? Đức Phật dạy là có thể làm được trong ngày Tự tứ. Do
đó, mà trong Phật giáo truyền lại một Pháp cứu độ cho tiền nhân trong ngày Tăng
Tự tứ.
Tôn
giả Mục-kiền-liên làm như vậy đã nêu một tấm gương chí hiếu lớn lao cho tất cả
Phật tử noi theo muôn đời. Tôn giả không những có hiếu trong đời Phật hiện tại
mà Tiền thân Ngài cũng đã là một người con chí hiếu.
Trong một Tiền kiếp, Tôn
giả sinh trong một gia đình nông dân. Cha mẹ chỉ có Tôn giả là con trai độc
nhất, nên vô cùng thương yêu chiều chuộng, và Tôn giả cũng thương yêu cha mẹ
không kém. Tôn giả biết cha mẹ chỉ sinh có một mình Ngài là con duy nhất, Tôn
giả nghĩ đến ngày cha mẹ tuổi già, không biết trông cậy vào ai, nên Tôn giả
nguyện ở độc thân suốt đời để phụng thờ cha mẹ, chứ không muốn lập gia đình.
Nhưng trong khi đó cha mẹ lại vì thương con không muốn con ở như vậy, sợ con cô
độc, sau này không có ai giúp đỡ lúc trở về già, nên luôn luôn ép con lập gia
đình. Trước sự thúc ép ấy, Tôn giả đành chiều ý cha mẹ.
Không
may khi lập gia đình, Tôn giả gặp một người vợ không tâm đầu ý hiệp, nàng ta
không phải là mẫu người phụ nữ thuần lương. Lúc mới cưới nàng về, Tôn giả dạy
vẽ cho vợ thay mình hầu hạ cha mẹ hôm sớm, cơm nước dâng lên cha mẹ đầy đủ như
khi Tôn giả vẫn thường làm. Lúc đầu người vợ ngoan ngoãn tuân theo, nhưng một
thời gian sau nàng tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với cha mẹ chồng.
Vì lẽ, thói
thường con trong ruột sinh ra đôi khi còn chưa thương cha mẹ ruột một cách hết
lòng huống gì là con dâu, làm sao thương ông bà gia như thương cha mẹ ruột!
Ngài vì sinh kế phải đi làm ăn, nàng ở nhà càng tỏ ra chểnh mảng trong việc hầu
hạ cha mẹ chồng. Khi đã chểnh mảng, muốn từ bỏ thì phải tìm kế, lập mưu.
Một
hôm, Tôn giả đi làm về thấy nước đổ lênh láng giữa nhà và hỏi nước đâu vậy?
Người vợ bèn chỉ vào ông già mà nói rằng: Ông chướng quá, tôi bưng nước lên
dâng ông, ông vung văng, chê nước nóng nước lạnh không chịu uống rồi vung tay
đổ cả ra giữa nhà như vậy đó, tôi chịu hết nổi!
Rồi
một bữa khác, Tôn giả đi làm về thấy cơm vãi ra giữa nhà và hỏi: Cơm đâu vung
vãi ra đầy nhà như vậy? Người vợ liền chỉ vào bà già trả lời, bà đó, bà chướng
quá, tôi nấu cơm để cho nguội, xới dâng lên cho bà, nhưng bà chê cơm trưa cơm
sớm rồi vung vãi ra cùng nhà như vậy đó, tôi chịu hết nổi! Cứ một điệp khúc ấy
bà vợ tỉ tê mãi, riết rồi chồng cũng phải xiêu lòng nghe theo.
Tôn giả nghĩ
rằng như thế thì cha mẹ mình quá chướng nên nói với vợ: "Thôi được, ta sẽ
có cách"!
Hôm
sau, Tôn giả thuê một chiếc xe ngựa, nói dối với cha mẹ rằng, mấy lâu nay cha
mẹ không về thăm Từ đường bên ngoại, nay mời cha mẹ về thăm một chuyến, để sau
này già yếu có nhắm mắt cũng khỏi ân hận. Cha mẹ nghe có lý nên đồng ý đi.
Tôn giả cầm dây cương cho xe ngựa lên đường, khi đi đến một đoạn vắng, đường gồ ghề, Tôn giả nhảy xuống ngựa và nói dối với cha mẹ hãy cầm cương hờ để con đi sau bảo vệ kẻo chỗ này cướp bóc nhiều lắm.
Nhưng thật ra, Tôn giả chẳng bảo vệ
gì, mà cốt ý lấy roi quất vào cha mẹ mà nói: "Đã chừa chưa? hết chướng
chưa? hết chướng chưa?" Dẫu bị đánh như vậy, nhưng cha mẹ không nghĩ là
mình bị đánh mà lại chỉ nghĩ đến con, mà la lên: "Con ơi, lo chạy đi kẻo
nó đánh chết, lo chạy đi con ơi!"
Chính trong khi bị đánh mà cha mẹ không
nghĩ đến mình đau lại cứ nghĩ con bị đánh chết mà la lên, nên hai chữ con ơi,
khi ấy nó đã đánh thức Tôn giả. Khiến Tôn giả nghe hai tiếng đó nó thiêng
liêng, mặn nồng, tha thiết trìu mến và thắm thiết một cách lạ kỳ. Tôn giả sực
tỉnh ra là mình bất hiếu quá sức! Cha mẹ thương mình như vậy mà mình lại bất
nhân, thiếu đức, nên Tôn giả liền hồi tâm và vội vã cho xe quay về và sám hối
cha mẹ.
Khi về tới nhà Tôn giả quyết định cho vợ về quê của nàng và nguyện sống
ở độc thân như vậy suốt đời với cha mẹ. Đó là một tiền kiếp của Tôn giả.
Còn
kiếp hiện tại, Tôn giả có tên là Mục-kiền-liên, một người con chí hiếu, muốn
thực hiện sự báo hiếu cho cha mẹ mà lúc ở nhà chưa thực hiện được. Nên trong
đời sống xuất gia, Tôn giả quyết tâm thực hiện để đưa cha mẹ mình đến cảnh an
vui.
Câu
chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứ và hiện tại như vậy là một bài
học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha. Phần nhiều ai cũng
có lòng hiếu với cha mẹ, nhưng vì không được un đúc, nhắc nhở, không gặp thầy
hay bạn tốt nên có khi tâm bị lung lay trở thành bất hiếu.
Có trường hợp bất
hiếu vì nghe theo bạn ác, có khi nghe theo danh lợi, quyền thế, nghe theo cờ
bạc, rượu chè, hoặc có khi làm nên ông này bà nọ rồi lên mặt với cha mẹ, anh
em, coi thường bà con cô bác, láng giềng mà trở thành bất hiếu. Chẳng hạn có
một anh nọ gặp may trở thành một quan chức lớn.
Lúc đó chưa có xe đưa rước, về
nhà cha mẹ nói đâu dạ đó. Nhưng khi làm một chức quan to rồi thì không thèm dạ
như xưa nữa sợ mất thể diện ông quan. Như vậy là vì nghe theo quyền thế mà trở
nên bất hiếu.
Lại
có người mù quáng học đòi theo thói văn minh vật chất tự do ích kỷ, mà không
biết đến văn minh đạo đức hiếu để cho nên trở thành bất hiếu.
Như
vậy, sự tích của Tôn giả Mục-kiền-liên là một gương quí nhắc nhở chúng ta vun
bồi lòng hiếu thảo của mình, đừng để lòng hiếu thảo bị các thứ khác làm vẩn
đục, làm cho mù quáng, mà đánh mất đi. Trong kiếp quá khứ, Tôn giả
Mục-kiền-liên thiếu cảnh tỉnh nên trở thành bất hiếu chỉ vì nghe theo lời vợ.
Trong xã hội xưa cũng như nay, có những người con rất có hiếu với cha mẹ, nhưng
khi chung đụng với xã hội, gặp hoàn cảnh không tốt, ít thân cận bạn hiền, bị
tác động bởi sự xấu xa nên khi trở về nhà, cha mẹ nói không nghe, anh chị
khuyên bảo không chịu, lại còn cãi lại, cha không hiểu chi, mẹ không biết chi,
còn mình đây mới hiểu, mới sáng suốt, mới có học. Đó là một thái độ thiếu cảnh
tỉnh nên bất hiếu.
Do
đó, cho nên ai có gần gũi bạn lành, lo tinh tấn tu niệm thì mới trở thành nhũng
người con có hiếu. Trong Kinh Trường A-hàm, đức Phật có chỉ cho chúng ta cách
báo hiếu tốt nhất là: Nếu gia đình nào có những người con mà biết Bố thí, biết
Ái ngữ, biết Lợi hành và biết Đồng sự thì cha mẹ mới nhận được sự hiếu kính của
con.
Nếu người con nào không biết Bố thí, không biết Ái ngữ, không biết Lợi
hành và không biết Đồng sự thì cha mẹ không hưởng được sự hiếu kính của con.
Thứ
nhất là bố thí. Kinh A-hàm dạy người hiếu kính cha mẹ là người biết tu hạnh Bố
thí. Người biết bố thí thì luôn luôn đem tâm hoan hỷ bố thí cho mọi người, dù
chỉ là một nụ cười, một cử chỉ cung kính.
Nụ cười ấy, cử chỉ cung kính ấy, sự
dịu dàng ấy, cách ăn nói ôn hòa ấy là của mình, nhưng nếu mình không làm, không
thể hiện là không có bố thí. Khi mình làm và thể hiện thì sẽ đem an vui đến cho
mọi người, chứ không nhất thiết phải hạn cuộc ở bố thí tiền bạc.
Đôi lúc một nụ
cười khiến cho người ta tiêu tan đau khổ, trong khi mình đem một túi tiền cho
họ chưa chắc họ đã hết đau khổ. Như vậy, người con biết bố thí thì cha mẹ mới
hưởng được sự hiếu kính của con, còn nếu con chỉ biết quí tiền của, xan tham,
chỉ muốn bòn rút của cha mẹ, thì chắc chắn cha mẹ không hưởng được sự hiếu kính
của con.
Đã
có trường hợp như sau. Một bà mẹ thiếu thốn, già yếu, người con không thèm hỏi
tới. Khi mẹ đau ốm mặc kệ, ăn ngủ không được cũng chả hề quan tâm. Người mẹ
buồn chán đi ở với bà con hàng xóm. Hàng ngày, bà đi bán nước chè và đi mót lúa
giành dụm mua được tấm vé số, khi dò may sao bà trúng.
Khi nghe mẹ trúng số thì
người con lật đật tới nói với mẹ: "Thôi mẹ về ở với con cho vui, con ở xa
nhớ mẹ, đêm hôm đau ốm không ai lo cho mẹ!" Như vậy người con khi thấy mẹ
thiếu thốn không có thì hất hủi, khi thấy mẹ có rồi thì hỷ hả, vì sao? Vì người
con thiếu tu, xem của cải, miếng ăn nặng hơn ơn sinh thành dưỡng dục của cha
mẹ.
Cho nên trong một gia đình, nếu vì tâm bỏn xẻn, anh em giành nhau, nghi
nhau, không có tâm bố thí thì cha mẹ sẽ không hưởng được sự ích lợi từ con cái.
Và ngược lại, con cái có tâm bố thí thì sẽ đem lại an lạc cho cha mẹ. Đó là lợi
ích của bố thí.
Thứ
hai là ái ngữ. Ái ngữ là một điều hết sức cần thiết, nó cũng rất dễ làm mà cũng
rất khó làm. Ái ngữ là nói dịu dàng, thân ái. Có người cho rằng: Lời nói dịu
dàng có chi đâu mà khó làm. Thế nhưng khó vô cùng, nếu không tu không thể nói
ái ngữ được, như câu chuyện sau đây:
Ngày
xưa, một người chỉ nuôi sống gia đình với một con ngựa đi chở thuê, nhờ nó mà hàng
ngày gia đình có ăn có mặc. Ngày kia, người ta đem đồ đến thuê chở trễ quá, anh
ta nóng lòng chờ đợi đến chiều mới có đồ người ta thuê chở về.
Sẵn bực tức
trong lòng, nên vừa bỏ đồ lên xe ngựa, anh liền đánh con ngựa một cái và nói:
Đồ nhãi ranh, đi, đi, đồ ăn hại, đồ chết bằm. "Nghe vậy, con ngựa ì ra đó,
không đi, đánh mấy cũng cứ ì ra đó. Anh đành chịu và xuống xe.
Một hồi sau, cơn
nóng giận trôi qua, anh dịu dàng đến vuốt ve con ngựa, âu yếm nói với nó:
"Thôi gắng đi đi con, còn ít giờ nữa là về nhà, giúp ta chở về nhà đi
con". Con vật nghe vậy, nó nhẹ nhàng dùng sức kéo chiếc xe đi ngay. Con
vật mà cũng biết được giá trị của ái ngữ huống chi là người ta. Do đó, đối với
cha mẹ, ta phải dùng ái ngữ, nếu không sẽ trở thành bất hiếu.
Thứ
ba là lợi hành. Lợi hành là làm việc lợi ích. Khoan nói lợi ích cho xóm làng,
cho xã hội mà nói lợi ích cho mình, cho gia đình mình. Có những người con coi
việc gia đình mình như việc ai đâu, không liên quan đến mình, không thèm sờ tay
tới, thậm chí như bưng chén nước chén cơm cho cha già mẹ yếu cũng không hề làm
tới. Đó là những việc lợi hành mà không làm, không làm như vậy thì cha mẹ làm
sao hưởng được sự hiếu kính của con!
Thứ
tư là đồng sự. Cùng làm chung với nhau, cùng làm lụng đồng sự với nhau, gây cảm
tình thương yêu vui vẻ lẫn nhau, còn không thì không làm sao gây tình cảm hiếu
kính với cha mẹ được. Cho nên Phật dạy một cách thấm thía rằng: Người nào biết
Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự thì cha mẹ mới hưởng được sự hiếu kính của
người con.
Như
vậy, báo hiếu cha mẹ bằng cách biết công ơn cha mẹ sâu dày như non cao bể cả,
mà tiền nhơn của chúng ta đã nhắc tới:
"Công
cha như núi ngất trời,
Nghĩa
mẹ như nước ở ngoài biển đông,
Núi
cao biển rộng mênh mông,
Cù
lao chín chữ ghi lòng con ơi".
Tiền
nhân chúng ta nói thiết tha lắm; cù lao chín chữ ghi lòng con ơi, cốt ghi chín
chữ cù lao là chúng ta có hiếu rồi. Nhưng báo hiếu cha mẹ bằng hình thức chưa
đủ mà còn phải báo hiếu bằng tinh thần.
Trong
kinh đức Phật dạy rằng: Cha mẹ chưa an trú trong Chánh Pháp, làm sao giúp đỡ,
dắt dẫn cha mẹ an trú trong Chánh Pháp, cha mẹ chưa an trú trong điều Lành thì
làm sao cho cha mẹ an trú trong điều Lành, cha mẹ chưa Quy y Tam Bảo thì nên
đưa cha mẹ an trú trong Quy y Tam Bảo.
Như vậy, cha mẹ không những hưởng được
phúc lạc vật chất bên ngoài mà còn hưởng được phúc lạc trong tâm hồn, giải
thoát bớt phiền trược, xa lánh được thế gian chấp trước, vọng tưởng luân hồi
sanh tử, mà đức Phật đã nhắc nhở.
Khi cha mẹ giải thoát, an vui thì sự báo hiếu
của người con mới thành tựu. Nên cổ đức có câu: "Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu
đạo phương thành tựu". (Cha mẹ được giải thoát, lìa khỏi trần ai thì người
con mới tròn hiếu đạo).
Là
người Phật tử, hãy ghi nhớ lời Phật dạy như vậy để hàng ngày tu niệm, hàng ngày
hồi hướng công đức về cho tiền nhân của mình, nhất là trong ngày lễ Vu Lan,
thành tâm chí kính, niệm Phật, tụng Kinh, lạy Phật, cúng đường Tam Bảo, cúng
dường chư Tăng Tự tứ, để cầu mong sự chú nguyện của Chư Tăng cho tiền vong của
mình thoát khỏi u đồ mà siêu sanh lạc quốc. Đó mới tạm gọi là con hiếu, là
người Phật tử thuần hành trong mùa báo hiếu vậy.
Tác giả bài viết: HT Thiện Siêu
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự