Thấy vậy, cậu khởi tâm muốn đi, liền truyền đem hương
hoa và lễ phẩm đi đến tinh xá Kỳ Viên cúng dường y phục, dược phẩm, cùng các thức
ăn uống lên chúng Tỷ-kheo và đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên…
Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, cậu nhận thức được
các quả ác do tham dục gây ra và những quả phúc do đời sống tu hành mang lại. Rồi
khi hội chúng ra về, cậu nán lại xin Đức Thế Tôn cho cậu được xuất gia, thọ giới.
Nhưng Đức Như Lai bảo cậu rằng Ngài không truyền giới cho ai chưa xin phép cha
mẹ.
Vì thế cậu rời Kỳ Viên ra về để xin phép gia đình. Tuy nhiên, vì cậu là con
trai duy nhất mà cha mẹ lại quá thương con nên họ không đồng ý. Cậu liền thể hiện
quyết tâm bằng cách tuyệt thực, nhịn ăn đến một tuần, cuối cùng mới được cha mẹ
chấp thuận, cậu trở lại tinh xá Kỳ Viên và xin thọ giới xuất gia. Thế Tôn liền
bảo một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho cậu.
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am
tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
Rồi vị Tỷ-kheo này suy nghĩ, phải tinh tấn nhiều hơn nữa để đạt cứu cánh của
thiền định, thành tựu mục tiêu giải thoát sanh tử của bậc Thánh giả. Thầy liền
xin phép đại chúng đi đến một làng ở biên giới, sống trong rừng sâu để thực
hành thiền định. Tuy vậy, vị Tỷ-kheo này không đạt được ý niệm nào đặc biệt, dù
đã tinh cần tu tập trong 12 năm liền mà tâm vẫn chưa được định tĩnh.
Cũng trong thời gian này, những biến cố tại gia đình cha
mẹ của thầy lại liên tiếp xảy ra. Người thương nhân giàu có trước đây giờ trở
nên nghèo túng vì những người thuê đất hay bán hàng thuê cho chủ không thấy có
con em gì đến thâu hoa lợi, nên đã đoạt hết của cải và bỏ trốn. Còn bọn gia
nhân tôi tớ trong nhà toa rập trộm cắp hết vàng bạc rồi trốn đi.
Cuối cùng hai
vợ chồng người thương nhân lâm vào cảnh nợ nần đến khốn cùng, họ phải bán nhà
trả nợ rồi đi lang thang hết sức khổ cực. Về sau họ phải đi ăn xin, mặc áo rách
rưới và cầm chiếc bát mẻ trong tay.
Còn người con trai duy nhất của họ thì trải qua mười mấy
năm sống đời xuất gia tinh chuyên thiền định nơi miền biên ải, bặt tin tức gia
đình. Một hôm, có vị Trưởng lão du hành đến nơi cư trú của Tỷ-kheo, thầy tiếp đón
rất ân cần. Khi được biết Trưởng lão đến từ Kỳ Viên, Tỷ-kheo hỏi thăm sức khỏe
của Đức Phật cùng các vị Thánh đại đệ tử, xong rồi hỏi thăm tin tức cha mẹ
mình, một thương nhân có tiếng tăm ở thành Xá-vệ.
Thật đau xót đến bàng hoàng,
vị Tỷ-kheo biết gia đình mình bị sạt nghiệp, cả hai ông bà lão đang lâm vào
tình cảnh rất thê thảm, phải đi ăn xin. Nghe xong, thầy không thể nào cầm lòng
được, nước mắt chảy dài thương cho cha mẹ. Trước tình cảnh đó, Trưởng lão
khuyên thầy hãy trở về phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi bóng xế tuổi già mà lâm
vào hoàn cảnh quá đỗi lầm than cơ cực.
Thầy đã phát tâm xuất gia, đi theo tiếng gọi thiêng liêng
để tìm cầu chân lý giải thoát nhưng cha mẹ già nơi miền viễn xứ luôn là niềm
riêng, canh cánh bên lòng. Mười mấy năm trường tu tập chưa chứng đạo mà nay lại
nhận được hung tin nên lòng dạ càng rối bời hơn.
Vị Tỷ-kheo suy nghĩ:
"Trong 12 năm liền ta tinh cần tu tập thiền định mà không thể nào đạt đạo
hay đắc quả, có lẽ ta vô tài trí. Vậy ta có làm gì được với đời sống phạm hạnh
này? Chi bằng ta trở về làm một gia chủ phụng dưỡng cha mẹ già và bố thí của cải.
Như vậy cuối cùng ta cũng được sinh lên thiên giới". Suy nghĩ xong, thầy
quyết định trở về.
Hoàn tục, một quyết định buồn của thầy Tỷ-kheo nhưng đáng
trân trọng và đáng quý; thầy trở về để phụng dưỡng cha mẹ. Vì làm sao có thể an
tâm thiền định khi cha mẹ rách rưới, đói khát, lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Ít ra thì trước khi trở thành bậc Thánh giải thoát, vị Tỷ-kheo phải làm tròn bổn
phận và trách nhiệm của con người; phải hiếu thảo với cha mẹ bằng những việc
làm thiết thực nhất để đền đáp thâm ân nuôi dưỡng sanh thành. Đức Phật chẳng đã
từng dạy, phận làm con thảo kính với cha mẹ thì công đức như trời biển đó sao?
Hôm sau vị Tỷ-kheo giã biệt núi rừng, khăn gói về xuôi,
băng qua nhiều chặng đường thì tới phía sau tinh xá Kỳ Viên, nơi không xa thành
Xá-vệ là mấy. Tại đó, thầy thấy hai con đường, một đường đến Kỳ Viên, một đường
đi Xá-vệ để về nhà. Đứng đó, vị Tỷ-kheo liền suy nghĩ: "Ta đến viếng cha mẹ
ta trước hay Đức Phật trước?".
Rồi thầy tự nhủ: "Nếu trở về thì ta sẽ
luôn gặp mẹ cha, từ đây ta sẽ ít có dịp yết kiến Đức Thế Tôn; vậy ta hãy yết kiến
bậc Chánh Đẳng Giác ngày hôm nay và nghe thuyết pháp, rồi ngày mai ta sẽ về thăm
cha mẹ".
Thế là vị Tỷ-kheo bước vào tinh xá Kỳ Viên lúc chiều tối.
Mờ sáng hôm sau, Bậc Đạo sư trong khi thiền định quán sát nhân duyên của chúng
sanh ở trần gian, đã thấy được tiềm lực ngộ đạo của thầy, nên khi thầy cùng các
Tỷ-kheo khác đến yết kiến Thế Tôn, Ngài tán thán công đức phụng dưỡng cha mẹ.
Sau khi nghe thuyết pháp, vị Tỷ-kheo nghĩ: "Nếu ta trở thành người gia chủ,
ta có thể phụng dưỡng cha mẹ, nhưng Bậc Đạo sư cũng dạy: Một người con đi xuất
gia vẫn có thể giúp đỡ, phụng dưỡng cha mẹ của mình.
Cho nên, ta vẫn có thể phụng
dưỡng cha mẹ mà vẫn duy trì đời sống tu hành chứ không làm một người gia chủ".
Nghĩ vậy, thầy cầm lấy thẻ cùng các vật thực phát theo thẻ và cháo của mình.
Tuy nhiên, thầy cảm thấy xấu hổ và đáng trách vì sau 12 năm nỗ lực thiền định
mà chưa thành tựu được đạo quả.
Sáng hôm, vị Tỷ-kheo rời khỏi Kỳ Viên và đi đến Xá-vệ.
Trên đường đi, thầy nghĩ thầm: "Ta nên đi lấy cháo trước hay thăm cha mẹ
ta trước đây?". Thầy thấy rằng về thăm cha mẹ trong lúc cha mẹ nghèo khổ
mà không có cái gì làm quà thì thật là không phải đạo. Nghĩ vậy thầy đi khất thực
cháo trước rồi lần theo dấu xưa về đến ngôi nhà cũ.
Nhà thầy vẫn còn đó nhưng
chủ nhân đã khác rồi. Vừa thấy cha mẹ ngồi dưới bóng râm bên cạnh bức tường của
nhà mình thuở nào, thầy không cầm được nước mắt. Nào ngờ vô thường đổi thay dường
như trong chớp mắt. Cảnh cũ người xưa vẫn còn đó nhưng sự thay chủ, đổi ngôi
chóng vánh đến nghiệt ngã, quặn lòng.
Cha mẹ của thầy, phần vì già yếu mỏi mệt, phần vì không
dám ngẩng mặt lên với đời nên không nhận ra con mình dù khoảng cách không xa.
Mà cũng khó để nhận ra, vì năm xưa con trai của họ là một thư sinh công tử chân
trắng, mặt trơn. Còn bây giờ vị Tỷ-kheo đầu trần chân trụi sương gió phong trần
đang đứng ngay trước mặt, thật quá khác biệt với quý tử năm xưa của họ. Thầy đứng
lặng câm như hóa đá.
Mẹ thầy tưởng rằng đó là một Sa-môn đang chờ bố thí, liền
nói: "Chúng tôi rất nghèo khổ, không có gì để bố thí cho người cả, xin người
hãy chịu khó đi nơi khác nhé". Thầy vẫn đứng yên bất động cho dù bà đã nhắc
đến lần thứ ba. Cuối cùng như linh cảm được điều gì, bà vùng dậy chạy đến, rồi
nhận ra con trai của mình liền gục xuống chân thầy mà than khóc, người cha cũng
khóc theo. Bao nhiều nhớ nhung, bấy nhiêu sầu khổ đều tuôn ra hết. Thầy cũng
không nén được lòng mình, bật khóc như trẻ nít rất ngon lành.
Chờ cơn xúc động đi qua, vị Tỷ-kheo nói: "Cha mẹ đừng
buồn nữa, từ nay con sẽ phụng dưỡng cha mẹ". Thế là sau khi an ủi và dâng
cháo cho cha mẹ ăn rồi, thầy bảo cha mẹ ngồi đợi bên đường rồi lại ra đi khất
thực đem thức ăn về cho cha mẹ dùng, sau đó mới đi khất thực cho chính mình.
Ngọ
trai xong, thầy tìm nơi trú chân nghỉ ngơi và tọa thiền, không xa nơi cha mẹ ngồi.
Từ đó về sau, vị Tỷ-kheo chăm sóc cha mẹ bằng cách này; thầy đem cho cha mẹ đồ
ăn khất thực dành cho mình, luôn cả những vật dụng như khăn mặt, áo mưa… mà thí
chủ bố thí, và thầy còn đi khất thực nhiều lần để đủ cho 3 người ăn.
Tuy nhiên, đâu phải lúc nào cũng khất thực được dồi dào.
Có những ngày thầy khất thực được rất ít, thậm chí có ngày chẳng được gì cả. Những
ngày ấy, thầy đều dành hết phần ăn dâng cho cha mẹ, còn thầy chịu đói, uống nước
lạnh rồi tọa thiền. Do vậy, dần dần thầy trở nên xanh xao gầy ốm. Các Tỷ-kheo
khác thấy vậy bảo: "Da dẻ của bạn trước đây tươi sáng nhưng nay lại xanh xao
quá, hẳn có bệnh gì?".
Thầy thật lòng đem gia cảnh hiện tại kể cho các bạn
đồng tu nghe. Một thầy khác rất thương bạn nhưng cảm thấy có gì chưa ổn lắm nên
nói: "Thưa Hiền giả, tôi chưa từng nghe Bậc Đạo sư cho phép chúng ta phí
phạm lễ vật cúng dường của các thí chủ. Bạn đã làm việc trái phép khi đem lễ vật
cúng dường của thí chủ cho người thế tục".
Nghe bạn nói vậy, vị Tỷ-kheo hổ thẹn cúi gằm mặt xuống,
sẵn sàng nhận mọi lỗi lầm nếu bị Thế Tôn khiển trách. Các Tỷ kheo kia thương cảm
cho hoàn cảnh của bạn nhưng trong lòng bất ổn nên đem chuyện thưa với Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo đã phí phạm lễ vật cúng dường
và đem cho người thế tục.
Đức Phật liền cho gọi vị Tỷ-kheo trẻ ấy đến và hỏi:
- Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của
thí chủ đem cho người thế tục không?
Thầy cúi đầu thú nhận. Rồi Bậc Đạo sư muốn ngợi khen
việc làm của thầy, liền hỏi:
- Thế ông mang đồ khất thực về phụng dưỡng người thế tục
nào?
- Bạch Thế Tôn, đó chính cha mẹ của con.
Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của thầy hơn
nữa, Ngài bảo ba lần:
- Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường
ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ của
Ta.
Vị Tỷ-kheo rất sung sướng khi được Đức Phật khích lệ
làm điều hiếu hạnh đó.
Những vị xuất gia ngày nay, vị nào muốn phụng dưỡng cha
mẹ các nhu cầu vật chất tối thiểu cho cuộc sống như ăn, mặc, ở… thì cung thỉnh
cha mẹ lên chùa và thành tâm chăm sóc, kính thờ "những vị Phật ở đời".
Mặc dù cốt tủy của tinh thần hiếu đạo, theo kinh Tăng Chi Bộ I, là: "Này
các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an
trú các vị ấy vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn,
an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn,
an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú
vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha" nhưng phụng dưỡng
vật chất, việc dễ làm và thiết thực nhất, luôn được Thế Tôn tán thán, khích lệ.
Nguồn tin: giacngo
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự