Mục
đích của đạo Như Thật là gạn lọc ý nghĩ cho trong sạch, vì ý nghĩ quyết định mọi
hành động thiện hay ác. Để hiểu rõ sự liên quan giữa ý nghĩ và hành động. Phật
dạy luật nhân quả, tức con đường mà xưa Phật đã trải qua và ngày nay hằng trăm
triệu con Phật trên khắp thế giới đương lần bước hướng theo. Hành trình đòi hỏi
nhiều cố gắng liên tục và một số hành trang tối thiểu. Muốn giữ cố gắng liên
tục, điều quan trọng là phát lòng chánh tín; còn hành trang tối thiểu chính là 5
giới cấm. Tập sách nhỏ này (dưới hình thức vấn đáp) không nhắm cao vọng nào khác
hơn là hướng dẫn tín đồ sơ cơ về các yếu điểm căn bản nói trên, để cho sự quy y
Tam Bảo đem lại lợi ích thiết thật nhằm mục đích xây dựng con người gây hạnh
phúc cho gia đình và xã hội.
Tác Giả Cẩn Chí
1)
Hỏi: Một tín đồ Phật Giáo trước hết phải hiểu và làm những gì?
Đáp:
Trước hết là phải hiểu rõ những yếu điểm căn bản của Phật dạy, thứ đến là phát
lòng chánh tín Tam Bảo, cuối cùng là thật hành năm điều răn trong đời sống hằng
ngày của mình.
2)
Hỏi: Vì sao phải theo thứ tự ấy?
Đáp:
Vì phàm làm việc gì, phải hiểu mục đích của việc ấy. Có thật hiểu mới phát được
lòng chánh tín và chí tâm thật hành để đem lại lợi ích cho bản thân, cho gia
đình và cho xã hội. Phật dạy : "Tin ta mà không hiểu ta là báng bổ ta".
3)
Hỏi: Những yếu điểm căn bản của Phật dạy là những điểm nào?
Đáp:
Không làm các điều ác. Siêng làm các điều lành. Giữ ý nghĩ trong sạch.
4)
Hỏi: Thế nào là ác?
Đáp:
Là những việc làm, lời nói và ý nghĩ không hợp lý, hại mình, hại người cả trong
hiện tại lẫn tương lai.
5)
Hỏi: Thế nào là thiện?
Đáp:
Là những việc làm, lời nói và ý nghĩ hợp lý, lợi mình, lợi người cả trong hiện
tại lẫn tương lai.
6)
Hỏi: Thế nào là ý nghĩ trong sạch?
Đáp:
Là ý nghĩ hợp với lẽ phải, không tham giận kiêu căng, không ganh ghét đố kỵ,
không gây hậu quả khổ đau cho mình và cho người. Ý nghĩ trong sạch khi phát hiện
ra nơi hành động thì hành động chân chánh, khi phát hiện ra nơi lời nói thì lời
nói hiền hòa, làm cho đời mình và đời người đều an vui tươi đẹp.
7)
Hỏi: Làm lành lánh dữ là những điều mà bất luận Tôn giáo nào hay học thuyết nào
cũng dạy, đâu có riêng gì Phật Giáo?
Đáp:
Vâng, đúng thế. Nhưng nói là một việc, còn có thật hành đúng như lời nói được
hay không lại là một việc khác. Đó là chưa nói đến sự làm lành lánh dữ ấy có hợp
lý hay không, vì nếu người đề xướng lên một lý thuyết mà chưa phải là một đấng
giác ngộ chân lý thì lý thuyết ấy khó mà hoàn toàn được.
8)
Hỏi: Bằng chứng đâu để biết lý thuyết đúng và thật hành cũng đúng như lý thuyết?
Đáp:
Cứ xem lịch sử đời sống của vị Tổ sáng lập Tôn giáo và lịch sử truyền bá của Tôn
giáo ấy thì biết.
9)
Hỏi: Đời sống của Đức Phật như thế nào?
Đáp:
Nhất nhất phù hợp với lời Ngài dạy. Phù hợp một cách hoàn toàn đến nỗi các học
giả khảo cổ Tây phương khi mới nghiên cứu Phật Giáo tưởng Đức Phật là một nhân
vật hoang đường không thật có trong lịch sử.
10)
Hỏi: Còn lịch sử truyền giáo của Phật Giáo?
Đáp: Một lịch sử trong trắng,
chưa từng gây đau thương cho một dân tộc nào, chưa từng gây chiến tranh với ai,
dù được mệnh danh là thánh chiến. Ngược lại Phật Giáo đến đâu hòa bình đến đó.
11)
Hỏi: Như vậy, ta phải kết luận về Phật Giáo như thế nào?
Đáp:
Đức Phật và môn đồ của Ngài trải gần 26 thế kỷ là những gương sáng của việc làm
lành lánh dữ.
12)
Hỏi: Nhờ đâu Phật Giáo giữ được trọn vẹn như thế?
Đáp:
Nhờ yếu điểm đặc biệt thứ ba: giữ ý nghĩ trong sạch. Ý nghĩ soi đường cho hành
động, hướng dẫn hành động; ý nghĩ đã trong sạch thì hành động tất nhiên phải
thuần thiện.
13)
Hỏi: Như thế, Phật Giáo hẳn phải đặc biệt lưu tâm đến vai trò của ý nghĩ?
Đáp:-Đúng như thế. Thiên kinh vạn quyển
hiện đương lưu truyền đều dạy cách phân biệt thế nào là tư tưởng chân chánh, thế
nào là tư tưởng tà vạy; tám vạn bốn ngàn pháp môn tu hành đều nhằm mục đích gạn
lọc ý nghĩ cho trong sạch mà thôi.
14)
Hỏi: Muốn thật hiện ba yếu điểm trên, trước hết phải làm gì?
Đáp:-Phát lòng chánh tín Tam Bảo, vì trong
kinh dạy : "Tín vi đạo nguyện công đức mẫu", nghĩa là: "Tín là nguồn gốc của
đạo, là mẹ đẻ của phước đức".
15)
Hỏi: Thế nào là chánh tín?
Đáp:
-Là tin những điều chân chánh, hợp lý có lợi ích thiết thật, như tin gây nhân
tốt sẽ hưởng quả tốt, nhân nào quả nấy như hình với bóng. Không tin những điều
mơ hồ viễn vông, không hợp lý và không lợi ích thiết thật như tin ma quỷ thần
quyền xằng bậy.
16)
Hỏi:Thế nào là Tam Bảo?
Đáp:-Là ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.
Phật
là tiếng gọi tắt chữ Phật Đà trong Phạn ngữ, chỉ cho những bậc Thánh nhân đã
hoàn toàn giác ngộ và vị đó đã hoàn toàn giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Trung Hoa dịch là Giác giả.
Pháp
là danh từ Trung Hoa dịch chữ Đạt Ma trong tiếng Phạn, chỉ cho giáo lý Phật, vì
giáo lý ấy thể hiện đúng đắn chân lý vũ trụ nhân sinh, dùng làm khuôn vàng thước
ngọc trong việc diệt trừ đau khổ tận gốc và đem lại an vui vĩnh viễn.
Tăng
là tiếng gọi tắt chữ Tăng Già trong Phạn ngữ, chỉ cho một đoàn thể từ 4 người
sắp lên, tu theo giáo pháp Phật và sống theo tinh thần lục hòa; Trung Hoa dịch
là Hòa hiệp chúng.
Phật,
Pháp, Tăng là mục tiêu mà mọi Phật tử phải nhắm đến.
17)Hỏi: Vì sao gọi Phật, Pháp, Tăng là ba
ngôi báu?
Đáp:-
Thế thường cho vàng bạc ngọc ngà hay quyền cao chức trọng là quý, nhưng thử hỏi
khi gặp cảnh đời tang thương dâu bể như giặc cướp tật dịch v..v. các thứ ấy có
vơi bớt nỗi khổ cho ta được không? Hay lại càng gây thêm khổ lụy cho ta nữa? Đó
là chưa nói vinh hoa phú quý có ngày tiêu tan, vàng bạc ngọc ngà là vật nay tụ
mai tán, chưa ai giữ được vĩnh viễn. Trong cõi đời vô thường này, cảnh ông hóa
nên thằng không phải hiếm. Duy có Phật, Pháp, Tăng mới thường trú, thường an
vui, thường chân thật, thường thanh tịnh và thường cứu vớt ta mà không phân biệt
thân sơ thù bạn. Vì bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh và đại nguyện độ sanh ấy nên
gọi Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu.
18)
Hỏi: Chánh tín Tam Bảo có lợi ích gì?
Đáp:
-Lợi ích chánh tín Tam Bảo không thể nói hết và cũng không thể nghĩ bàn được.
19)
Hỏi: Xin nói một vài lợi ích của sự chánh tín Phật.
Đáp:
-Trong kinh nói: "Chư Phật trong mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ thương
nhớ con". Mẹ thương nhớ con như vậy mà nay con đáp ứng lại lòng thương vô biên
của mẹ, đặt hết tin tưởng vào trí sáng suốt vô lượng của mẹ thì khác nào như
người đi đêm mà có đuốc soi đường, qua nơi nguy hiểm mà có người dìu dắt, không
còn lo lắng sợ hãi gì nữa.
20)
Hỏi: Còn lợi ích chánh tín Pháp?
Đáp:
-Phật dạy hễ tạo nhân lành thì hưởng quả tốt, tạo nhân dữ thì chịu quả xấu. Luật
nhân quả là một luật xác thật. Phật lại dạy: "Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ
thành", nghĩa là đều có khả năng thành Phật. Vậy nếu tin và thật hành đúng lời
Phật dạy, nhất định sẽ hết mê được ngộ, hết khổ được vui.
21)
Hỏi: Giáo pháp Phật dạy chỉ có chừng ấy thôi sao?
Đáp:
-Còn nhiều, rất nhiều. Nhưng chung quy cũng không ngoài nhân quả.
22)
Hỏi: Lợi ích chánh tín Tăng như thế nào?
Đáp:
-Tăng là những vị thay Phật tiếp tục việc giáo hóa giống như Phật đã làm lúc còn
tại thế. Đã thay Phật thì Tăng tức là Phật. Về mặt gây phước đức, lợi ích chánh
tín Phật như thế nào thì lợi ích chánh tín Tăng như thế ấy.
23)
Hỏi: Khi đã phát lòng chánh tín rồi, phải làm gì nữa?
Đáp:
-Phải quy y Tam Bảo.
24)
Hỏi: Thế nào là quy y?
Đáp:
-Quy nghĩa là quay về; Y nghĩa là nương tựa. Chúng sanh vì mê lầm nên bị dục
vọng lôi cuốn khiến bị chìm đắm trôi lăn mãi trong biển khổ luân hồi, không nơi
nương tựa, khác nào đứa con hoang mải mê theo tiếng gọi giang hồ du đãng, lăn
mình vào gió bụi, nếm đủ mùi chua cay, nay bỗng giác tỉnh, muốn chấm dứt cuộc
sống ba đào trôi nổi, quay về với quê hương xứ sở để tìm chỗ nương tựa, nên gọi
là quy y.
25)
Hỏi: Thế nào gọi là quy y Phật Bảo?
Đáp:
-Là quay về nương tựa đức Phật, thờ đức Phật làm thầy, thề suốt đời không thờ
trời thần quỷ vật.
26)
Hỏi: Thế nào gọi là quy y Pháp Bảo?
Đáp:
-Là quay về nương tựa giáo lý đức Phật, lấy giáo lý ấy làm đuốc soi đường, thề
suốt đời không nghe lời dụ dỗ của tà ma ngoại đạo truyền bá giáo lý quàng xiên.
27)
Hỏi: Thế nào gọi là quy y Tăng Bảo?
Đáp:
-Là quay về nương tựa Tăng Già, xem Tăng Già như Phật còn tại thế, đủ nêu gương
sáng cho ta bắt chước noi theo, thề suốt đời không thân cận bạn hữu xấu xa và
độc ác.
28)
Hỏi: Nghe nói có vô lượng chư Phật trong mười phương thế giới, vậy nên thờ đức
Phật nào hơn?
Đáp:
-Đã là giác ngộ như nhau thì đức Phật nào cũng có trí tuệ viên mãn như nhau và
thương xót chúng sanh như nhau. Nhưng tùy theo cơ cảm chúng sanh có cơ duyên với
đức Phật nào hơn thì thờ đức Phật ấy, như người tu Tịnh độ thì thờ đức Phật A Di
Đà, người tu Mật tông thì thờ đức Phật Đại Nhật ..v..v.. Nhưng nếu thờ đức Phật
Thích Ca thì đầy đủ hơn cả, vì ngài là giáo chủ cõi Ta Bà chúng ta trong hiện
tại.
29)
Hỏi: Ngài là nhân vật có thật trong lịch sử hay chỉ nghe truyền thuyết nói lại?
Đáp:-Ngài là một nhân vật lịch sử, ra đời
cách đây trên 2,500 năm, tên là Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da
ở nước Ca Tỳ La Vệ thuộc miền bắc Ấn Độ ( nay là nước Népal). Năm 29 tuổi, sắp
nối ngôi vua cha thì Ngài xuất gia cầu đạo, 35 tuổi thành Chánh giác dưới gốc
cây Tất Bát La tức cây Bồ Đề, hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi thành Phật,
Ngài thuyết pháp khắp xứ Ấn Độ, cứu độ vô lượng chúng sanh thoát ly đau khổ, 80
tuổi nhập diệt tại rừng Sa La Song Thọ trong lãnh thổ nước Câu Thi Na. Giáo lý
của Ngài dạy như thế nào thì đời Ngài thật hành y đúc như thế ấy.
30)
Hỏi: Giáo lý ấy hiện còn đầy đủ không?
Đáp:
-Còn giữ nguyên vẹn, gồm đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận và đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng. Trung Hoa đã dịch đầy đủ ra Hán văn từ lâu, gọi là Đại Tạng Trung Hoa.
Việt Nam ta chỉ mới bắt đầu dịch một số thôi. Giáo lý ấy, tiếng Phạn gọi là Đạt
ma và Trung Hoa dịch là Pháp.
3l)
Hỏi: Còn Tăng Già, vì sao Trung Hoa dịch là hòa hiệp chúng?
Đáp:
-Vì chữ Tăng Già trong tiếng Phạn, chỉ cho chúng đệ tử của Phật từ bốn người trở
lên sống hòa hiệp với nhau theo tinh thần lục hòa:
1.
Thân hòa đồng trú: thân hòa hiệp, ăn ở như nhau.
2. Khẩu hòa vô tranh:
miệng hòa hiệp, không tranh cãi nhau.
Ý hòa đồng duyệt: ý hòa hiệp, thuận
thảo với nhau.
Kiến hòa đồng giải: có chánh kiến cùng nhau chia xẻ.
Giới
hòa đồng tu: cùng chỉ bày kiến giải cho nhau.
Lợi hòa đồng quân: cùng san sẻ
lợi lộc như nhau.
32)
Hỏi: Không quy y Tam Bảo có hại gì không?
Đáp:
-Có rất nhiều điều hại. Trước tiên là không được dịp thân cận Tăng để được chỉ
bày, bảo ban phương pháp tu hành theo con đường chánh. Thứ lại là không được
thân cận Pháp để tìm hiểu và phân biệt chánh tà chân ngụy. Sau hết là không gây
được thiện duyên với Phật để mong Phật cứu độ. Trong kinh dạy: không quy y Phật
thì dễ đọa địa ngục; không quy y Pháp thì dễ đọa ngạ quỷ; không quy y Tăng thì
dễ đọa súc sanh.
33)
Hỏi: Vì sao vậy?
Đáp:
-Vì nguồn gốc của đau khổ luân hồi là tham, sân, si. Không quy y Phật, không bắt
chước đức từ bi của Phật thì sân hận mỗi ngày mỗi tăng mà sân hận là nguyên nhân
của địa ngục. Không quy y Pháp, không tìm hiểu chánh pháp để phân biệt chánh tà
thì tham lẩn dễ dấy, mà tham lẩn là nguyên nhân của ngạ quỷ. Không quy y Tăng,
không có gương thanh tịnh hiền hòa cho ta bắt chước và không người chỉ lối đưa
đường cho ta tránh ác làm lành thì si tâm càng ngày càng dày đặc thêm, mà ngu si
là nguyên nhân của súc sanh.
34)
Hỏi: Muốn quy y Tam Bảo phải làm như thế nào?
Đáp:
-Tìm một vị tu hành giới hạnh trang nghiêm, học thức uyên bác, thay mặt chúng
Tăng bạch Phật làm lễ truyền thọ 3 pháp quy y trước điện Phật.
Trong
lúc nghe 3 pháp quy y thì lòng mình nhất tâm hướng về Tam Bảo và thiết tha phát
nguyện giữ 3 pháp ấy trọn đời, dù gặp hoàn cảnh nào cũng không biến đổi. Như thế
lễ quy y mới thành tựu.
35)
Hỏi: Tin Phật mà chưa quy y có được gọi là Phật tử không?
Đáp:
-Chỉ bắt đầu từ giờ phút nhất tâm thọ trì 3 pháp quy y trước điện Phật, do các
vị tu hành thanh tịnh truyền thọ mới chính thức là một Phật tử, hay nói đúng
hơn, một Ưu Bà Tắc hoặc một Ưu Bà Di.
36)
Hỏi: Ưu bà tắc, Ưu bà di là gì?
Đáp:
-Ưu bà tắc, Ưu bà di là tiếng Phạn; Trung Hoa dịch là Cận sự nam, Cận sự nữ hoặc
dịch thiện nam, tín nữ. Là những người đàn ông hay đàn bà gần gũi Tam Bảo, phụng
sự Tam Bảo và được Tam Bảo luôn luôn ủng hộ.
37)
Hỏi: Thọ trì Tam Quy rồi, người Phật tử có cần làm gì khác nữa không?
Đáp:
-Trên con đường hướng đến mục tiêu Tam Bảo, tam quy như hai mắt, ngũ giới như
hai chân. Mắt ngước nhìn mục tiêu nhưng đồng thời chân phải cất bước mới mong
đạt được mục tiêu ấy. Ngũ giới là bước đầu của địa vị thánh hiền.
38)
Hỏi: Ngũ giới là những gì?
Đáp:
-1.- Không sát sanh.
2.- Không trộm cắp.
3.- Không tà dâm.
4.-
Không nói dối.
5.- Không uống rượu.
39) Hỏi: Thế nào là không sát sanh?
Đáp:
-Không manh tâm hoặc không giết hại sanh mạng, dù cho sanh mạng ấy là loài vật,
vì chúng cũng biết đau khổ như ta. Trái lại, còn phải luôn luôn tôn trọng và cứu
sống sanh mạng của muôn loài. Tội ác lớn không gì bằng giết hại; công đức lớn
không gì bằng cứu sống.
40)
Hỏi: Thế nào là không trộm cắp?
Đáp:-
Không trực tiếp hay gián tiếp phỉnh gạt để lấy của của người. Trái lại còn phải
cố gắng bố thí cho muôn loài. Họa hoạn lớn không gì hơn tham lam; phước báu
không gì hơn bố thí.
41)
Hỏi: Thế nào là không tà dâm?
Đáp:
-Không lang chạ với vợ người, chồng người, hoặc với người không phải vợ mình,
chồng mình.
42)
Hỏi: Thế nào là không nói dối?
Đáp:
-Không nói lời độc ác, không nói lời thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời
gian trá, như có nói không, không nói có. Trái lại, phải nói lời chân thật ngay
thẳng hiền hòa, lợi mình lợi người.
43)
Hỏi: Thế nào là không uống rượu?
Đáp:
-Rượu là thứ làm loạn tinh thần, làm mất trí tuệ. Trong hiện tại, rượu là nguyên
nhân sinh ra nhiều tật bệnh; trong tương lai, rượu là nguyên nhân của ngu si mờ
tối. Trong kinh ví rượu dữ hơn thuốc độc. Mục đích người Phật tử là tu tập trí
tuệ, phát huy trí tuệ để tìm hiểu sự thật thì tuyệt đối không được uống rượu.
Ngoài ra, cũng không được dùng các thứ kích thích thần kinh khác như thuốc phiện
và các đồ gia vị như hành, hẹ, nén tỏi, v..v..
44)
Hỏi: Công dụng thiết thực của ngũ giới là gì?
Đáp:
-Tạo nên những con người có tư cách, có nhân phẩm, được mọi người kính yêu.
Trong gia đình, đó là cha hiền, con thảo; ra quốc gia, đó là người dân tốt. Nếu
toàn thể nhân loại giữ được 5 giới cấm thì xã hội an lạc, thế giới hòa bình.
45)
Hỏi: Giữ một lần cả 5 giới e khó chăng?
Đáp:
-Người giữ trọn 5 giới gọi là toàn phần Ưu bà tắc (nếu là đàn ông) hoặc toàn
phần Ưu bà di (nếu là đàn bà). Người chỉ giữ được 2 giới gọi thiểu phần Ưu bà
tắc hoặc thiểu phần Ưu bà di. Người giữ 3 giới gọi là bán phần Ưu bà tắc hoặc
bán phần Ưu bà di. Người giữ 4 giới gọi là đa phần Ưu bà tắc hoặc đa phần Ưu bà
di. Nếu chưa đủ sức giữ trọn 5 giới thì chọn 2 giới mà mình nghiệm có thể giữ
được để phát nguyện thọ trì. Về sau quen dần sẽ phát nguyện thọ trì thêm cho đủ
5 giới.
46)
Hỏi: Nếu không thọ trì được giới nào cả thì sao?
Đáp:
-Chả lẽ một Phật tử đã quy y rồi mà vẫn còn giữ nhiều tánh độc ác xấu xa sao!?
47)
Hỏi: Phát nguyện giữ giới, nhưng bất đắc dĩ hoặc vô tình phạm phải thì làm thế
nào?
Đáp:
-Sám hối trước Tam Bảo và nguyện không tái phạm. Điều cốt yếu là trong khi sám
hối, lòng mình có tự thấy xấu hổ và thành thật ăn năn thì tội lỗi mới tiêu tan
và giới thể mới trở lại thanh tịnh như khi chưa phạm.
48)
Hỏi: Chỉ giữ đúng 5 giới cấm mà không quy y Tam Bảo có được không?
Đáp:
-Quy y Tam Bảo là chánh kiến, thọ trì 5 giới là chánh giới. Kinh dạy chánh kiến
quan trọng hơn chánh giới; nếu chỉ giữ 5 giới cấm mà không quy y Tam Bảo, tương
lai tuy vẫn hưởng thọ phước báu giàu sang trong cõi trời hoặc cõi người, nhưng
vì không được Tam Bảo hướng dẫn thì không khéo phước báu càng cao đọa lạc càng
sâu.
49)
Hỏi: Quy y Tam Bảo và thọ trì năm giới rồi, có nên khuyên người khác làm như
mình không?
Đáp:
-Đó là một công đức rất lớn. Khuyên thêm được một người quy y giữ giới tức là
bớt cho xã hội một sự xấu xa đau khổ. Kinh dạy: "Trong tất cả sự cúng dường,
cúng dường Chánh pháp là hơn hết". Mà cúng dường Chánh pháp tức là tự mình sống
đúng với Chánh pháp và khuyên người sống theo Chánh pháp vậy.
50)
Hỏi: Như trên kia nói chánh tín là tin nhân quả, vậy nhân quả là gì? Và có liên
quan gì với năm giới không?
Đáp:
-Rất liên quan nhau. Nhưng trước hết hãy tìm hiểu nhân quả là gì đã.
Nhân
là nguyên nhân, như cái mầm cây trong hột; quả là kết quả, như cái trái trên
cây. Trái do mầm sanh và mầm nào sanh trái nấy, không lẫn lộn được. Mầm cây ngọt
sanh trái ngọt, mầm cây đắng sanh trái đắng. Quả nào không do một hay nhiều
nguyên nhân sanh, mà đã có nguyên nhân tất nhiên phải có kết quả.
Luật
nhân quả chi phối toàn thể cuộc sống và bao trùm khắp vũ trụ. Không có cái gì
thoát ra ngoài luật nhân quả được. Ngay giáo pháp vĩ đại của Phật cũng chỉ
thuyết minh lý nhân quả mà thôi.
51)
Hỏi: Còn liên quan giữa luật nhân quả và năm giới?
Đáp:
-Không sát sanh, trái lại còn phóng sanh, đó là nguyên nhân của quả sống lâu vô
bệnh. Không trộm cắp, trái lại còn bố thí, đó là nguyên nhân của quả giàu sang
bền vững. Không tà dâm, đó là nguyên nhân của quả sum vầy, đầm ấm trong gia
đình. Không nói dối, đó là nguyên nhân của quả tin yêu, không bị lừa gạt. Không
uống rượu, đó là nguyên nhân của quả trí tuệ. Đây là chỉ mới nói một ít kết quả
thông thường thôi.
52)
Hỏi: Sao có người từ nhỏ đến lớn siêng năng làm ăn, không trộm cắp của ai mà
suốt đời vẫn chật vật khốn khổ?
Đáp:
-Đó là kết quả của nguyên nhân trong kiếp quá khứ. Luật nhân quả rất phức tạp,
chứ không giản dị như người thường quan niệm. Có nhân quả đồng thời, có nhân quả
dị thời, có nhân quả chuyển biến v..v.. Nhân quả đồng thời là như tay gõ thì tai
liền nghe tiếng; nhân quả dị thời là như trồng lúa hôm nay, ba tháng sau mới có
ăn, hoặc như một việc làm bất cẩn từ năm trước, trăm năm sau mới thấy hại.
53)
Hỏi: Mọi sự việc trên đời này hô ứng theo luật nhân quả thì cha tu cha hưởng,
con tu con hưởng, hai bên dính líu gì nhau?
Đáp:
-Lý đương nhiên như thế. Nhưng ở đời mọi cuộc gặp gỡ đều do túc duyên mà thành.
Một người sở dĩ thọ sanh vào một nhà nào đó, tất nhiên phải thuộc loại đồng
thanh đồng khí với nhà ấy. Có những gia đình đông con mà đứa thì thông minh hiền
hòa, đứa lại ngu đần hung ác, đó là do tâm tính và hành vi của cha mẹ lúc thọ
thai. Nếu thọ thai trong thời gian cha mẹ làm được nhiều điều phước thiện, tâm
tính tốt lành thì đứa con thọ sanh vào hẳn phải là đứa con tốt. Trái lại, tất
gặp phải con xấu. Cho nên cha mẹ ăn ở phước đức mới sanh được con hiếu thảo
thông minh.
54)
Hỏi: Luật nhân quả, ai đặt ra?
Đáp:
-Đó là qui luật tự nhiên không do ai đặt ra cả. Phật nhờ giác ngộ mà phát minh
được định luật ấy, soi đường cho chúng ta. Đã là định luật thì tạo nhân tốt
hưởng quả tốt, tạo nhân xấu hưởng quả xấu, không trời thần quỷ vật nào cưỡng lại
hoặc xen vào thưởng phạt hết.
55)
Hỏi: Thế thì thờ Phật và lạy Phật để làm gì?
Đáp:
-Để tỏ lòng biết ơn Phật và để hằng ngày chiêm ngưỡng Phật mà noi gương Từ Bi Hỷ
Xả của Phật, nhờ đó ta huân tập dần dần các đức sáng ấy làm cho ta mỗi ngày mỗi
gần Phật hơn. Ngoài ra, lạy Phật còn là một cách tu luyện để thanh tịnh hóa 3
nghiệp thân, khẩu, ý. Khi lạy Phật, thân đứng ngay ngắn để chiêm ngưỡng Phật,
tức thân thanh tịnh; miệng niệm danh hiệu Phật, không nói lời xằng bậy, tức khẩu
thanh tịnh; ý nghĩ đến 4 đức Từ Bi Hỷ Xả và vô lượng công đức của Phật nói trong
kinh, không có ý nghĩ tạp loạn xen vào, tức ý thanh tịnh. Vì tội lỗi là do 3
nghiệp sanh ra, nay 3 nghiệp thanh tịnh tức tội diệt phước sanh.
56)
Hỏi: Niệm Phật có lợi ích gì?
Đáp:
-Niệm Phật nghĩa là nhớ nghĩ đến Phật. Đã nhớ nghĩ đến Phật, tất nhiên không nhớ
nghĩ đến cái khác, giúp cho ý nghiệp thanh tịnh như đã nói trên. Pháp môn niệm
Phật hay pháp môn Tịnh độ là pháp môn huyền diệu nhất và dễ tu nhất.
57)
Hỏi: Tụng kinh có lợi ích gì?
Đáp:
-Tụng kinh cũng như niệm Phật, sự lợi ích thật không thể nghĩ bàn được. Khi đọc
tụng lời Phật dạy, tâm ta huân tập đức thanh tịnh sáng suốt của Phật, tự nhiên
mỗi ngày ta gần Phật một bước, tụng niệm mãi cho đến khi giữa ta và Phật không
còn cách ngăn nhau nữa: tâm ta tức tâm Phật, tâm Phật tức tâm ta. Đó là cứu cánh
của sự tụng niệm Phật.
58)
Hỏi: Thế thì vì sao còn phải ăn chay ?
Đáp:
-Tất cả sanh vật đều có tình thức như ta, đều biết đau khổ như ta, nghĩa là đồng
tham sống sợ chết như nhau cả. Chả lẽ ta lại nhẫn tâm gây đau khổ cho những sinh
vật khác trong khi chính ta cũng đương ê chề với đau khổ? Vì vậy, Phật dạy nên
ăn rau để tỏ lòng thương xót loài vật. Người đã quy y rồi, ít nhất cũng phải ăn
được 2 ngày chay một tháng, vào ngày rằm và mùng một.
59)
Hỏi: Đạo Phật có thừa nhận có ma quỉ không?
Đáp:
-Ngoài nhân quả ra, đạo Phật không thừa nhận gì cả. Nhưng hễ lòng người muốn cái
gì (nhân) thì có cái nấy (quả). Nếu lòng mình luôn luôn nhớ nghĩ Phật thì Phật
hiện, luôn luôn nhớ nghĩ ma thì ma hiện. Trong kinh có chép một chuyện ma như
sau: Có một phụ nữ bị ma quỷ hãm hiếp và đã dùng trăm phương nghìn kế dể trừ khử
nhưng không kết quả. Về sau nhờ gặp một thầy Tỳ kheo truyền cho 3 pháp quy y, bà
ta đêm ngày thành tâm tụng đọc 3 pháp ấy, tự nhiên không còn thấy ma quỷ nữa và
trở lại sống an vui như trước.
60)
Hỏi: Khi tụng kinh niệm Phật, muốn cầu Phật cứu giúp cho một việc gì, như thế có
đúng chánh pháp không và có được không?
Đáp:-Nếu mình đem hết tín thành vận lòng
mình như lòng Phật để gây nhân tốt thì tự nhiên Phật với mình cảm thông nhau,
quả tốt sẽ do đó mà có. Muốn cho công đức thành tựu viên mãn, điều cốt yếu vẫn
là phải giữ ý nghĩ trong sạch, không làm các điều ác, siêng tu các điều lành,
như bài kệ Phật dạy trong Giới Kinh
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng
hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Và
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp
tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự