Khi
chúng ta ăn những món hiền lành và bố dưỡng thì chúng ta cũng biết. Ðó gọi là
chánh kiến. Ta thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hằng ngày, trên bàn ăn
và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền đường mà thôi.
Trước khi ăn chúng ta nói: "chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi
dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh", đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu
ăn.
Nói
về đoàn thực, Bụt đã dùng hình ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con. Hai vợ
chồng này mang đưá con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực
đem theo là đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực
phẩm. Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói.
Cuối cùng họ phải đành
tâm ăn thịt đứa con để sống mà ra khỏi sa mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. Bụt
hỏi rằng: "Này các thầy, khi hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có
thấy thích thú gì không?" Các thầy thưa: "Bạch đức Thế Tôn, làm sao
thích thú được khi biết mình đang ăn thịt con." Bụt dạy: " Trong đời
sống hằng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của mình đã
có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh
vật khác."
"Hai
tay nâng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."
Ăn
không có chánh niệm, ta tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính bản thân
ta. Khi ta hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là ta đang ăn bộ phổi
của ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, ta tự đang ăn thịt ta. Nếu là cha,
là mẹ thì lúc đó ta đang ăn thịt con ta tại vì các con cần có cha mẹ mạnh khỏe,
tươi vui.
Và nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình
thì chính cha mẹ đang giết con. Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những
khổ đau cho các loài và đừng tạo khổ đau cho chính mình, đó là chánh niệm và
chánh kiến.
Ðạo Bụt trong cả Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ
đời này sang đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ của nhau. Vì vậy mỗi khi
ăn thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái
của ta. Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh.
Loại
thức ăn thứ hai là xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý. Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Ta phải thấy rằng
việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không.
Ví dụ như khi ta xem
truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc. Phải thực tập chánh kiến xem chương
trình truyền hình kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù
và bạo động hay không.
Có những phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ
bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi. Ta
biết ta có thể xem phim đó. Ấy là ta thực tập chánh kiến.
Người lớn cũng như
trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến. Phải biết rằng có
những chương trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù
và dục vọng. Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng
hay sợ hãi của người ta.
Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể
tiếp nhận rất nhiều độc tố. Ðọc xong ta có thể mệt nhoài vì những điều ta đọc
có thể khiến chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng
ngày cũng có thể mang nhiều độc tố. Ðó là xúc thực.
Chánh
kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. Tôi
biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm tôi sẽ khỏe khoắn,
nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày tiếp xúc với những chất liệu đó.
Còn nhữõng thứ làm tôi mệt, tôi buồn, tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc. Ðó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực. Bụt dạy rằng con người rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn. Bụt đã dùng hình ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông.
Dưới sông có hàng vạn
loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò. Và khi ta đưa con bò tới
đứng gần một bức tường hay một cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống
trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu.
Nếu chúng
ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong
cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta. Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và
hành trì là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn ra. Nếu không hành trì năm giới
là chúng ta không thực tập chánh kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt
giống của chánh niệm. Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để
chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.
Loại
thức ăn thứ ba là tư niệm thực. Ðó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho
đời ta. Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến
sĩ, những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn.
Mong
muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm thực. Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng
lượng để thực hiện hoài bão. Nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ
đau suốt đời. Như danh, lợi, tài và sắc.
Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn
được giúp đở cho gia đình và xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa,
để thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời.vv.. thì đó là loại tư niệm thực có
thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.
Về
tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ khiêng người kia ném xuống
hầm lửa đang bốc cháy. Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm thực bất thiện
chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như ta bị những anh chàng
lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa. So đó người tu học phải có chánh kiến, phải
nhận diện được tư niệm thực trong ta là loại nào.
Loại
thức ăn thứ tư là thức thực. Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và
chánh báo. Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh
chung quanh ta. Vì hành động từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này,
với y báo này. Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức.
Khi làm
công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn. Nếu trong quá
khứ tâm thức ta đã tiếp nhận những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu
hiện ra y báo và chánh báo không lành.
Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp
xúc, suy tư, tưởng tượng,tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm
thức. Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trở về biển cả của tâm
thức ta. Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những
món ăn nào. Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho nó ăn trạo
cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?
Về
thức thực, Bụt đã dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra
lệnh lấy 300 lưởi dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi chiều vua hỏi:
" Người tù đó bây giờ sao?" - "Tâu bệ hạ, nó còn sống." -
"Vậy thì đem nó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần nữa."
Và buổi tối, vua hỏi: " Kẻ đó bây giờ ra sao?" - " Còn sống."
- " Hãy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!" Bụt dùng ví
dụ đó để nói chúng ta cũng đang hành hạ tâm thức của ta y như thế. Mỗi ngày
chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của
tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.
Bốn
ví dụ kể trên được chép trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa con. Bốn ví
dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải tỉnh táo giữ gìn chánh
kiến.
Tác giả bài viết: HT Nhất Hạnh
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự