Thí
dụ cho mình là người giỏi nhất, hại người lợi mình, thích những điều xa vời hão
huyền hoặc làm những việc mà không có người nào dám làm. Ðó là tạo nghiệp, mà
tự mình tạo thì mình thọ, so với người khác không giống nhau.
Loại
thứ hai gọi là Chúng Sinh Ðồng Phận Vọng Kiến, tức là do chúng sinh cộng nghiệp
tạo thành, mình cùng với tất cả những người khác thì đều giống nhau; cũng như thiên
tai làm chết hàng ngàn vạn người thì đó gọi là cộng nghiệp, là một số người cùng
chịu chung. Những người đó cùng tạo điều ác nên cùng thọ quả báo giống nhau.
Chữ
"kiến" ở đây có nghĩa là kiến giải, bởi vì lấy si mê của chúng sinh
làm của mình, nhận tên trộm làm con mình, cho nên sinh ra đủ thứ chấp trước
vọng tưởng. Do vọng tưởng mà sinh ra mê hoặc, do mê hoặc mà tạo ra vô số ác
nghiệp, bởi vậy cho nên cùng nhau thọ quả ác.
Bây
giờ tôi xin kể một chuyện thật về Cộng nghiệp như sau: Năm Dân Quốc thứ 33
(1944), ở tỉnh Hà
Những con châu chấu này mỗi lần bay tới thì đầy cả bầu trời. Tất cả nông sản đều bị chúng ăn hết, thậm chí một ngọn cỏ một chiếc lá cũng không mọc lên nổi. Lúc bấy giờ có một đứa trẻ nhìn thấy trên trời có một ông già đeo cái túi, từ sáng đến chiều luôn tay vứt xuống những con châu chấu từ trong túi ấy bay khắp bầu trời.
Dân ở đó vì quá đói nên giăng lưới bắt châu
chấu về ăn cho đỡ đói. Họ nghĩ rằng châu chấu cũng là một nông sản nên không có
chất độc. Ngờ đâu khi những con châu chấu này bị nấu chín rồi thì biến thành
phân, thành đất bùn, ăn không được, không ai dám ăn cả.
Vì đói quá nên dân
chúng chỉ còn có cách là dời đến nơi khác. Từ tỉnh Hà Nam đến Trường An cách xa
tám trăm dặm, trong khoảng đường có người chết không biết bao nhiêu mà kể;
những người này chết một cách khủng khiếp, ai nấy nhìn thấy cũng khiếp sợ. Ðây
có thể nói là một ví dụ do "cộng nghiệp" mà chiêu cảm lấy quả báo.
Bây
giờ nói tới Biệt Nghiệp Vọng Kiến và Ðồng Phận Vọng Kiến. Trong Kinh Lăng
Nghiêm Phật có giải thích rất rõ ràng.Thế nào là Biệt Nghiệp Vọng Kiến? Cũng
như trong thế giới này, có những người mắt bị nhặm thì thấy trước mắt toàn một
màu đỏ, ban đêm khi nhìn ánh đèn lại thấy xung quanh đèn có những vòng ánh sáng
đủ màu.
Bởi mắt có bịnh nên mới thấy những huyễn ảnh như vậy, thấy đủ năm màu
tạp sắc trùng trùng điệp điệp. Con mắt bịnh này tượng trưng cho vô minh, ban
đêm tượng trưng cho si mê, ánh đèn tượng trưng cho tạng tánh, tức là bổn tánh
của mình, năm màu sắc tượng trưng cho Ngũ Uẩn hay Ngũ Ấm, là những trần cảnh
giả tạo.
Vì
do chúng sinh có vọng kiến nên mới có huyễn ảnh ở ngoại cảnh; nếu vọng kiến mà
trừ rồi thì bịnh không còn nữa, ánh sáng huyễn ảnh đó làm sao mà có được? Con
mắt tốt tượng trưng cho trí huệ chân thật, còn bóng đèn tượng trưng cho chân
lý. Dùng trí huệ chân thật mà thấy được chân lý, thì Nhất Chân Pháp Giới hoàn toàn
không có Ngũ ấm, Ngũ Trần gì cả.
Cũng
như có người mắt mình vốn không có bịnh nhưng tự mình lại làm cho có bịnh.
Giống như một anh chàng hút thuốc phiện vậy, có lần anh ta cười lớn trong khi
anh ta đang đứng trước một bức tường.
-Tôi
hỏi: "Tại sao anh cười?"
-Anh
ta trả lời: "Thật là kỳ quái! Bức tường này thật đẹp, nó có đủ năm màu ánh
sáng chiếu rọi bốn phía."
Ðó
chỉ là do huyễn ảnh mà ra, không có bịnh mà hút thuốc phiện thì tâm thần trở
nên điên đảo. Những huyễn ảnh đó vốn là giả lại cho là thật, nên thân ở trong
mê mà chẳng biết mình mê! Trên đây đã lược giải Biệt Nghiệp Vọng Kiến.
Tiếp
theo, trong Kinh lại giải thích thế nào là Ðồng Phận Vọng Kiến. Thí dụ như
trong Diêm Phù Ðề có một châu nhỏ, chỉ có hai nước mà quả báo chiêu cảm không
giống nhau. Dân chúng của một nước thì thọ cảm ác duyên, toàn gặp những tai nạn
bất tường; còn dân ở nước lân cận thì chẳng bị gì cả. Ðó là do vọng hoặc, vọng
nghiệp, vọng kiến mà tạo thành.
Như
hiện tại ở Mỹ, miền Ðông thường có tai họa bão lụt làm chết nhiều người, nhưng
miền Tây Nam thì hoàn toàn vô sự. Ðó là vì nghiệp cảm chỉ tại miền Ðông mà
thôi, không có tại miền Tây Nam vậy.Hoặc có kẻ thấy hai mặt trời hay hai mặt trăng
thì đều là những điềm bất tường; người xưa nói: "Thiên vô nhị nhật, Dân vô
nhị quân." (Trên, không có hai mặt trời; Nước, không có hai vua.)
Ở
Trung Hoa, về đời nhà Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng
nhiên hiện ra hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong. Ðó là điềm hung dữ
được báo trước.Ngoài ra còn có những điềm gọi là Vựng, Thích, Bội, Quyết.
Những
ác khí bao quanh mặt trăng làm mờ mặt trăng thì gọi là Vựng; khí đen che lấp mặt
trăng gọi là Thích; khí trắng ở bên cạnh mặt trăng gọi là Bội, mà che đi một
nửa thì gọi là Quyết. Ðó là những điềm xấu thuộc về mặt trăng.
Lịch
sử Trung Hoa có chép rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ ở
Bành Thành bị giặc Hung Nô vây khốn.Ngôi sao có ánh sáng dài sau đuôi gọi là
Tuệ, tức là sao chổi; hào quang ngắn hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh;
ở trên không trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi là Lưu
Tinh; đó đều là những điềm xấu thuộc về các ngôi sao.
Sách
Xuân Thu có chép rằng vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt
xuống như mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi xuất hiện; đó
cũng là những điềm không lành.Ác khí ở phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên cạnh
mặt trời gọi là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi là Hồng Nghê,
buổi sáng gọi là Hồng, buổi chiều gọi là Nghê; đó đều là những điềm xấu của mặt
trời. Tóm lại, bên cạnh mặt trời, mặt trăng có hiện ra những khí đó đều là
những điềm báo trước sự bất tường.
Ở
nước Trung Hoa, mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường
xảy ra. Có lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền
triệu quan Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu.
-Vị
Khâm Thiên Giám tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ
tử vong, nhưng thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho
Bệ Hạ, Bệ Hạ có bằng lòng không?"
-Nhà
vua trả lời: "Tể Tướng lo liệu quốc gia đại sự thì làm sao có thể chết
thay cho ta được."
-Viên
quan lại hỏi: "Có thể chuyển tai họa đến nhân dân chăng?"
-"Dân
là gốc của nước, ta vì dân mà làm, có thể nào để dân chết thay cho ta được."
-"Nếu
vậy thì chuyển tai họa này đến mùa màng được chăng?"
-"Mùa
màng mà mất thì dân sẽ chết đói, đó là chuyện ta không thể làm được!"
Quan
Khâm Thiên Giám nghe xong liền sụp lạy mà tâu rằng: "Hoàng Thượng đúng là
bậc minh quân có lòng nhân từ, thì nhất định sẽ chuyển được điều hung dữ thành
điều kiết tường; Hoàng Thượng nhất định không thể chết được!"
Quả
nhiên, ngày hôm sau điềm xấu trên trời biến mất, không còn thấy nữa. Việc đó
chứng minh rằng không có chuyện gì là cố định, chỉ do tâm mình mà chuyển biến
thôi. Nếu tâm thiện thì có thể chuyển điều xấu thành điều tốt; cho nên Lão Tử nói
rằng:
"Hồi
tâm thú thiện,
Thiện
tuy vị vi nhi Thiện Thần tùy chi.
Hồi
tâm hướng ác,
Ác
tuy vị vi nhi Ác Thần tùy chi."
Dịch
là:
"Quay
tâm hướng thiện,
Ðiều
thiện tuy chưa làm mà Thiện Thần đã theo sát. Chuyển tâm về ác,
Ðiều
ác tuy chưa làm mà Ác thần đã kề bên."
Thần
thì có thiện có ác; Thiện thần thì bảo hộ thiện nhân, Ác thần thì trừng phạt kẻ
ác, cho nên nói rằng: "Họa, phước vô môn, Duy nhân tự chiêu." (Họa,
phước không cửa vào, Chỉ do mình tự chuốc lấy.)Nếu trong tâm mình không làm
điều ác thì điều bất tường (không lành) không thể phát sinh.
Tác giả bài viết: HT Tuyên Hóa
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự