Đáp:
Trí tuệ (S: Prajnã, P: Jnãna), là một thuật ngữ Phật học,
có tần số xuất hiện cao trong các kinh, luận hay trong các tác phẩm viết về Phật
giáo. Trí tuệ thường được xem như một danh từ chung nhưng thật ra giữa Trí và
Tuệ có nhiều sự khác biệt.
Theo từ nguyên, Trí được phân định ra thành nhiều loại
như Chính trí, Tà trí, Thế gian trí, Xuất thế gian trí, Nhất thiết trí… Nghĩa thông
thường nhất của Trí, đó là năng lực nhận thức của con người đối với tất cả những
sự vật và hiện tượng trên bình diện hiện thực, là khả năng phân biệt và đoán định
được phải trái, đúng sai, chánh tà.
Tuệ là một khái niệm trung tâm của Phật
giáo, chỉ cho năng lực nhận thức không phải do suy luận hay khảo nghiệm mà có, ở
đây chỉ cho năng lực trực nhận được tính Không, là khả năng nhận ra được thực
tướng của sự vật và hiện tượng. Luận Duy thức (quyển 9) nói rằng: “Thế nào gọi
là Tuệ, quán trong cảnh được, mất đều là Không thì chỉ có Tuệ mới đạt được, mới
quyết định được”.
Nói cách khác, giữa Trí và Tuệ có sự liên quan thâm thiết với
nhau, lắm khi được sử dụng lẫn lộn tùy theo ngữ cảnh; nhưng khái quát lại có thể
hiểu: liễu biệt sự tướng trên phương diện Hữu vi thì gọi là Trí; thông đạt tính
Không, thực tướng của vạn hữu thì gọi là Tuệ. Tuệ ở đây đồng nghĩa với Bát Nhã,
với Giác Ngộ. Khi nói “đạo Phật là đạo của Trí tuệ” chính là Trí Tuệ được xét ở
phương diện này.
Mục tiêu xuyên suốt mà giáo lý Phật giáo nhắm đến, đó
chính là tìm về với Giải thoát, với Giác ngộ vì Giác ngộ là “tuyệt lý của vũ trụ,
là yếu lý của Phật tánh” (Thiền luận, quyển Thượng, tr 73). Hiển nhiên, Giác ngộ
được đề cập ở đây không phải là cái biết bằng lý luận sắc bén, bằng sự phân
tích rạch ròi, vì đã vượt ngoài khả năng biểu đạt của ngữ ngôn, kinh nghiệm.
Thế
thì con đường để tìm về với Trí tuệ – Trí Tuệ được hiểu theo nghĩa là Nhận thức
được Thực tướng Vô ngã của các pháp – bằng sự tích tập tư duy, bằng sự
rèn luyện của ngôn ngữ hoàn toàn bít lối. Muốn tìm cầu Trí Tuệ bằng con đường
này, hành giả phải tự thân khảo nghiệm qua quá trình tu chứng của mình.
Tuy nhiên, khi xét về phương diện hiện thực thì
hơn đâu hết, Phật giáo vẫn chú trọng đến Trí tuệ hiểu theo nghĩa tri thức, nhất
là những tri thức liên quan đến nguyên nhân của những nỗi khổ đau và cách thức vượt
thoát ra khỏi những nỗi khổ đó. Bởi lẽ, hiện thực của cuộc đời cần đến tri thức,
Phật giáo cũng cần có tri thức để đi vào cuộc đời với mục tiêu là chuyển hoá
tâm thức cho tất cả chúng sanh.
Đó cũng là điều mà trong đệ ngũ Giác ngộ
của kinh Bát Đại Nhân Giác có nói rằng “quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ…”.
Việc khuyến tấn và vận dụng Ngũ minh (Nội minh, Y phương minh, Công xảo minh,
Thanh minh và Nhân minh) trong khi hoằng hoá Phật pháp là một minh chứng hùng hồn
cho việc cần đến tri thức trong quá trình tìm cầu trí tuệ siêu việt.
Cần phải thừa nhận rằng Phật giáo có một phương
pháp nhận thức (nhận thức luận) đặc thù. Căn cứ vào lý luận nhận thức của Phật
giáo thì chủ thể nhận thức tất nhiên là thuộc về con người và đối tượng nhận thức
chính là các pháp.
Các pháp ở đây không đồng nghĩa với phương pháp mà nó “bao
hàm mọi sự vật cụ thể hay trừu tượng, cái gì có thể cho ta một khái niệm về nó
đều gọi là pháp” (Xem, Nhất Hạnh, Vấn đề nhận thức trong duy thức học, Nxb. Lá
bối, Sài gòn, 1969, Tr 21).
Theo giáo lý Phật giáo, nhận thức là một quá trình biện
chứng và rất phức tạp, thông qua nhiều bước. Theo chúng tôi, con đường nhận thức
của Phật giáo có thể chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu thuộc về Tri và
giai đoạn sau thì thuộc về Ngộ. Giai đoạn Tri được thiết lập trên cơ sở của tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; giai đoạn Ngộ được biểu đạt bằng sự thể
hiện của Tuệ giác.
Cùng với quan điểm này, một nhà nghiên cứu Phật học sau khi
khảo sát kinh Lăng Già đã cho rằng: “Có hai hình thức hiểu biết, một hình thức
để nắm lấy tuyệt đối hay thâm nhập vào cảnh giới của Tâm, và một hình thức để
hiểu hiện hữu trong khía cạnh nhị biên của nó mà trong đó, lý luận là thù thắng
và cách thức là hoạt dụng.
Trong Lăng Già, hình thức hiểu biết thứ nhất được định
nghĩa là sự phân biệt (Vikalpa) và hình thức hiểu biết thứ hai gọi là trí tuệ siêu
việt hay Giác trí (Prajanã). Phân biệt hai hình thức hiểu biết này là thiết yếu
nhất trong triết học Phật giáo”( D. T. Suzuki, Lăng Già đại thừa kinh, Thích
Chơn Thiện, dịch, Nxb. Tp Hồ Chí Minh 1998, Tr 49).
Về vấn đề phương pháp nhận thức, thật sự ra, phương
pháp nhận thức của Phật giáo có nguồn gốc từ các phương pháp nhận thức của các
trường phái triết học Ấn độ cổ đại. Nếu như phương pháp nhận thức của Tây
phương được khởi đầu từ phép biện chứng của Heraclite (544-483ttl), từ Tam đoạn
luận của Aristote (384-322ttl) thì phương pháp nhận thức ở phương Đông được khởi
đầu bằng Nhân Minh Luận.
Xét về mặt lịch sử thì Nhân minh luận có nguồn gốc
manh nha từ trong học phái Nyàya -một trong sáu trường phái lớn của Triết học Ấn
độ thời kỳ cổ đại -sau đó, được Phật giáo tiếp biến và phát triển theo một chiều
hướng mới, tạo nên một khả năng lý luận cực kỳ sắc bén của phương pháp nhận
thức hết sức đặc thù này.
Trong quá trình phát triển, phương pháp nhận thức này
ngày càng được cũng cố và kiện toàn, hình thức cuối cùng của quá trình
phát triển là phương pháp Tân Nhân Minh với công lao to lớn của ngài Trần Na (Dignàga:
480-540). Có thể coi Tân Nhân Minh là một bước phát triển mạnh mẽ trong lý luận
nhận thức của Phật giáo.
Tân Nhân Minh có hình thức như Tam đoạn luận của
Aristote, bao gồm ba bộ phận: Tôn, Nhân và Dụ. Đơn cử một ví dụ: Tôn: âm thanh
là vô thường; Nhân: vì do sự tác động mà có; Dụ: những gì do tác động mà có đều
vô thường.
Ngoài phương pháp này ra, trong giáo lý Phật giáo còn có những
phương pháp nhận thức khác như phương pháp Tam lượng (Hiện lượng, Tỉ lượng và
Phi lượng) mà Duy thức học đề xướng. Đặc biệt nhất, với biện chứng của
Không, Vô thường và Vô ngã, Phật giáo từ lâu đã khẳng định tính ưu việt trong quan
điểm về lý luận nhận thức của mình mà mãi đến ngày hôm nay, lý luận đó vẫn còn
nguyên tác dụng.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự