Địa, thủy, hỏa, phong, thức.
Nguyên lai nhất thiết không
Như vân hoàn tụ tán
Phật nhật chiếu vô cùng
Sắc thân dự diệu thể
Bất hợp bất phân ly
Nhược nhân yếu phân biệt
Lô trung hoa nhất chi
Dịch ý
Đất, nước, lửa, gió, thức
Vốn tất cả đều là không
Cũng như mây hợp rồi tan
Còn mặt trời Phật thì chiếu vô cùng
Sắc thân và diệu thể
Không hợp cũng không chia ly
Nếu người muốn phân biệt
Thì cũng như hoa sen trong lò lửa.
Bài
thơ thiền của Thiền sư Đạo Huệ cũng giúp trả lời phần nào thắc mắc "có linh
hồn trong con người hay không ?" Điều mà chúng ta tưởng tượng là ở trong
chúng ta có một linh hồn bất tử, linh thiêng, đồng thời cũng là cái ta tư duy,
cảm thọ, tưởng tượng, ý chí quyết định làm việc này việc khác, phân biệt, hiểu
biết.v.v...Chúng ta không biết là ngay trong sự tưởng tượng của chúng ta đã có
điều mâu thuẫn, vô lý, phản lô-gích rồi, và chính đạo Phật bác bỏ cấu trúc
tưởng tượng mâu thuẫn, vô lý và phản lô-gích đó của chúng ta.
Đạo
Phật đặt câu hỏi: "Một linh hồn tưởng tượng là linh thiêng, là bất tử, không
thay đổi, đồng thời cũng là cái ta tư duy, cảm thọ, tưởng tượng, quyết định làm
việc này hay việc khác, phân biệt hiểu biết...
Đã
có tư duy thì có tư duy sai hay đúng, cũng như đã có cảm thọ thì có vui, buồn,
thích hay không thích, ghét hay yêu. Đã có phân biệt hiểu biết thì cũng có phân
biệt hiểu biết sai hay đúng, làm sao một cái ta linh thiêng, bất tử và bất biến
lại có thể tư duy đúng sai, cảm xúc vui buồn, yêu ghét, phân biệt và phán xét
có thể chính xác mà cũng có thể sai trái?
Khi
xác nhận ta có một cái Ta kiểu như Atman của Ấn Độ giáo, hoàn toàn sáng suốt và
tối thiện ở trong mỗi người chúng ta, thì lập tức sa lầy vào mâu thuẫn trùng
trùng điệp điệp như đã phân tích trên đây. Chính vì vậy mà Phật giáo bác thuyết
Atman, tức là thuyết cái Ta của Ấn Độ giáo. Quan điểm phủ định đối với thuyết
Atman rất là rõ trong nhiều kinh Phật Nguyên thủy, như Trường Bộ tập III, Trung
Bộ tập I. Trong những kinh đó, thường gặp đi gặp lại như một điệp khúc, khi nói
tới năm uẩn: "Sắc không phải là ta, ta không phải là cái này, cái này
không phải là tự ngã của ta..."Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều lặp
đi lặp lại điệp khúc như vậy. "Phải chăng là thích hợp khi xem cái vô
thường, đau khỗ, bị thay đỗi như là tôi, tôi là cái này, cái này là tự ngã của
tôi".
Vậy
thì qua những kinh Phật đã dẫn, chúng ta phải hiểu đích thực Đức Phật bác bỏ
cái gì trong thuyết linh hồn hay là thuyết Atman ? Cái mà đạo Phật bác là linh
hồn hay Atman được tưởng tượng như một cái gì siêu nhiên, bất tử, bất biến. Đức
Phật không muốn đệ tử Ngài mất thì giờ vào những tư biện siêu hình như vậy,
cũng không khác gì tư biện siêu hình về thế giới là vĩnh hằng hay sinh diệt, là
hữu biên hay vô biên...
Theo
cách phân tích của đạo Phật, thì cái gì đã là vĩnh hằng, bất biến như cái linh
hồn tưởng tượng của chúng ta thì làm sao chúng ta lại có thể trừ bỏ điều ác,
hướng tới điều lành được, làm sao tâm ý chúng ta từ dơ bẩn lại có thể trở thành
trong sạch, thanh tịnh ? Theo cách nhìn của Phật giáo, thì trong con người
chúng ta, dù là thành phần vật chất như sắc thân (tức sắc uẩn), dù là thành
phần phi vật chất như thọ, tưởng, hành, thức, tất cả đều là vô thường, và chính
vì là vô thường nên hàm chứa một khả năng tiến bộ vô tận. Nói ra thì có vẻ như
mâu thuẫn, nhưng chính lô-gích của cuộc sống là như vậy đó.
Ở trong
con người, có thể nói, mối quan hệ phức tạp, khó phân tích nhất là mối quan hệ
giữa thân và tâm. Đó là một câu hỏi, trong số 14 câu hỏi mà Phật không trả lời.
Ở trong con người, thân và tâm là một hay là hai ?
Vì
sao ? Vì khi nói tâm là nói tâm nào. Nếu đó là cái tâm thức tư duy cảm thọ bình
thường, thì ngay trong câu đầu tiên của bài thơ thiền của Đạo Huệ, chúng ta
thấy rõ, tất cả 5 uẩn, trong đó có thức uẩn, đều là vô thường. Như vậy là theo
đạo Phật, tất cả mọi thành phần dù là vật chất hay phi vật chất ở trong chúng
ta cũng đều là vô thường, và vì là vô thường cho nên cũng là không rỗng, vô
ngã, là "nguyên lai nhất thiết không"
Đồng
thời Đạo Huệ cũng nói đến chân tâm hay diệu thể, ở "trong chúng ta"
mà, sách Phật thường nói là "không thể nghĩ bàn", siêu việt ngôn ngữ
và tư duy bình thường, cho nên Đạo Huệ miễn cưỡng nói "bất hợp, bất phân
ly" hay là "lô trung hoa nhất chi" (hoa sen trong lò lửa). Thật
ra, nói chân tâm nằm ở trong thân, cũng như nói hoa sen ở trong lò lửa, cũng là
nói miễn cưỡng, nói điều không thể nói, đáng lẽ nên im lặng không nói gì hết,
như Phật đã từng như vậy khi có người hỏi Phật là thân với tâm là một hay là
hai. Chân tâm hay diệu thể (từ của Thiền sư Đạo Huệ), hay diệu tánh (từ của
Thiền sư Ngộ Ấn thời Lý) đều là cái chân lý tối hậu mà chúng ta chỉ có thể qua
trực cảm huyền nhiệm (mystic intuition- xem cuốn Buddhist Logic tập I bản Anh
ngữ của viện sĩ Nga Scherbatsky, tr 63) để biết được mà thôi, còn nếu chỉ bàn
luận và tư biện dù là tư biện theo chiều sâu cũng chỉ là mất công, mất sức mà
thôi. Bản thân Đức Phật đã từng dùng ảnh dụ người mù sờ voi để phê phán như là
vô ích mọi công phu tư biện và tranh luận để nắm bắt chân lý tối hậu. Ở đoạn
trước, tôi đã dẫn chứng bài thơ thiền của Đạo Huệ. Thiền sư Ngộ Ấn, cũng ở đời
Lý và có một ý tương tự :
Diệu tánh hư vô bất khả phân
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn
Ngọc tuy đốt trên núi,
nhưng màu sắc vẫn tươi
Hoa sen trong lò vẫn nở.
Tất
cả những ảnh dụ kiểu như hoa sen trong lò, ngọc đốt trên núi để phản ảnh cái
bất lực của ngôn ngữ để nói điều không thể nói, mô tả điều không thể mô tả. Một
lần nữa, đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộ và giải thoát, đi theo con
đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
Đức
Phật khuyến cáo chúng ta hãy quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ,
quán tâm trên các hành tướng của tâm, và quán các pháp đều là vô thường (xem
kinh Đại niệm xứ thuộc Trường Bộ II).Và quán sát như vậy là để nhằm những mục
đích rất thực tiễn. Quán thân là để cho tâm hành được an tịnh. Quán các cảm thọ
là để cho tâm hành cũng được an tịnh. Quán tâm là để cho tâm được hân hoan, tâm
được định tĩnh, và cuối cùng tâm được giải thoát.
Nếu
tất cả Phật tử Tăng Ni chúng ta bỏ được cái tật tư biện siêu hình thì sự nghiệp
tu hành của chúng ta cũng sẽ đỡ phiền phức và đơn giản biết bao!
Nếu
tất cả Tăng Ni Phật tử chúng ta hàng ngày học như vậy, thực hành như vậy, thì
tự nhiên câu hỏi "con người có linh hồn hay không", hay là nói theo
Ấn Độ giáo, có Atman hay không, sẽ tự nhiên và tức khắc được giải đáp.
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự