Ðáp: Câu hỏi của Phật tử mới nghe qua tuy đơn giản, nhưng
đây lại là một vấn đề mang tính chuyên sâu rộng lớn. Ngôi chùa tuy hiện diện
trước mắt chúng ta, nhưng muốn hiểu rõ về nội dung cũng như hình thức tác dụng
của nó, thiết nghĩ cũng không phải là chuyện dễ dàng. Vấn đề nầy, đâu phải chỉ
riêng có Phật tử không hiểu, mà hầu như đại đa số Phật tử chúng ta, ít có ai chịu
khó nghiên cứu tìm hiểu tường tận về vấn đề nầy.
Với một đề tài sâu rộng như thế,
mà chúng tôi chỉ trình bày giới hạn trong phạm vi trả lời câu hỏi, thì chắc chắn
là chúng tôi không thể nào nói hết tầm mức quan trọng về ý nghĩa sâu xa và tác
dụng của ngôi chùa được.
Tuy nhiên, để khỏi phụ lòng Phật tử đã hỏi, ở đây,
chúng tôi cũng chỉ xin trình bày một cách dón gọn đơn sơ qua một vài nét khái
quát, theo sự hiểu biết nông cạn của chúng tôi mà thôi. Nếu có dịp, tôi thành thật
khuyên Phật tử nên nghiên cứu tìm hiểu sâu rộng cặn kẽ hơn.
Trước hết, xin nói sơ qua về những tên gọi của nó.
Chùa, tiếng Hán Việt gọi là tự. Nó còn có những tên khác như: Tăng già lam, Già
lam, Phạm sát, Lan nhã, Tùng lâm, Tinh xá, Ðạo tràng v.v… Có chỗ gọi là tự viện.
Tiếng Phạn tương đương với tự viện là Vihara.
Truy nguyên về nguồn gốc của ngôi chùa, ta thấy, ở vào
thời kỳ đức Phật Thích Ca, thì có hai ngôi tinh xá xuất hiện nổi tiếng sớm nhứt
ở Ấn Ðộ. Một là tinh xá Trúc Lâm ở thành Vương xá do vua Tần Bà Sa La (Bimbisara)
kiến lập. Hai là tinh xá Kỳ Hoàn hay còn gọi là Kỳ Viên (Jetavena) ở thành Xá vệ,
do trưởng giả Tu Ðạt Ða (Anathapindika) tạo dựng để cúng dường cho Phật và
chúng tăng cư trú.
Còn ở Trung Quốc, theo sử liệu cho biết, ngôi chùa đầu
tiên có tên là Hồng Lô Tự, do triều đình xây dựng để tiếp đãi tăng khách bốn phương.
Thường các vị tăng Tây Vực (Ấn Ðộ) khi đến Trung Quốc thì trước tiên thường hay
đến nơi nầy để nghỉ và rồi sau đó mới đi nơi khác. Do đó về sau, gọi nơi tăng
ni ở là “Tự” tiếng Việt gọi là chùa. Ðó là những ngôi chùa đầu tiên đã được kiến
lập ở Ấn Ðộ và Trung Quốc.
Riêng ở Việt Nam, chúng tôi thấy trong quyển Ðạo Phật
Việt Nam, xuất bản năm 1995 tại TP Hồ Chí Minh, Hòa Thượng Thích Ðức Nghiệp có
nói đến ngôi chùa Yên Phú, thuộc xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Ngôi chùa nầy có mặt dài lâu nhứt trên đất nước Việt
Ngoài ra, trong quyển Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1, khi nói
về nhà Sư Phật Quang và di tích đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam, giáo sư Lê Mạnh
Thát cũng có đề cập đến một ngôi chùa cổ ở trên núi Quỳnh Viên. Nhưng rất tiếc
ông không có nêu rõ tên chùa.
Nếu nói một cách chung chung, thì từ khi đạo Phật du
nhập vào đất nước ta, khi đã có hình bóng của các vị tăng sĩ tu hành truyền đạo,
tất nhiên là phải có những cơ sở cho những vị đó trú ngụ hoằng pháp. Cơ sở đó
chính là ngôi chùa. Dĩ nhiên, trong thời kỳ phôi thai nầy, chắc chắn là những
ngôi chùa đã được dựng lên, tất phải còn đơn sơ nghèo nàn lắm. Làm gì có được
những ngôi chùa đầy đủ tầm vóc nguy nga tráng lệ, nghệ thuật kiến trúc thẩm mỹ
độc đáo như sau nầy.
Về tác dụng của ngôi chùa, trước hết phải nói ngôi chùa mang chức năng là một cơ sở giáo dục. Nói chung, dù chùa nhỏ hay lớn, đơn sơ hay hoành tráng, đều có chung một mục đích là mang tính tác dụng giáo dục.
Thử
nhìn lại, những giai đoạn hưng vong, thạnh suy của dân tộc và Phật giáo, lịch sử
đã chứng minh, bất luận thời nào, ngôi chùa cũng đóng một vai trò then chốt
quan trọng trong việc điều hướng giáo dục quần chúng nhân dân. Có thể nói chùa
là cái nôi là cái lò rèn luyện chuyên đào tạo cho mọi người hướng thiện tu hành.
Có những ngôi chùa biến thành như một ngôi trường
làng, đề ra chương trình giáo dục thực tiễn nhằm xây dựng đạo đức nhân bản cho
con người. Mục đích là nhằm đào tạo con người có được đời sống tâm linh phong
phú và trên hết là chất liệu văn hóa tình người. Ðó là con đường hướng đến Chân,
Thiện, Mỹ, mà những vị tăng ni đóng vai trò chủ chốt trong việc đào tạo nầy. Một
học giả đã viết: “Thời Giao Châu đô hộ phủ, các lò huấn dục nhân tài ắt phải ở
tại các ngôi chùa Phật giáo cổ xưa, vốn thân cận với nhân dân bị trị, nơi quy tụ
tín ngưỡng của nhân dân” ( PGVN, Nguyễn Ðăng Thục, T, 284 )
Ngoài ra, ngôi chùa còn là một hình ảnh thân thương rất
quen thuộc gần gũi với nếp sống hiền hòa của những người dân quê mộc mạc. Câu
nói: “Ðất vua, Chùa làng” đã cho ta thấy cái giá trị tín ngưỡng thiêng liêng trong
tình tự hài hòa gắn bó thể hiện trong nếp sống tình cảm chơn chất đơn thuần của
người dân quê.
Vì chùa là mái ấm che chở ấp ủ nuôi dưỡng đời sống tâm linh của
họ. Họ xem ngôi chùa như là một mái ấm gia đình chung. Do đó, nên họ cùng
nhau quyết tâm đóng góp xây dựng bảo vệ và phát huy mạnh mẽ. Mái chùa là niềm
an ủi xoa dịu những nỗi buồn u uất đè nặng trong tâm hồn của họ. Và vì thế nên
họ không thể nào quên được.
Mai nầy tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa.
Bỏ quê bỏ cả gió trăng nhưng niềm đau nhứt là phải bỏ
chùa! Làm sao có thể quên được? Vì chùa là nơi mà họ đã từng tới lui ấp
yêu tràn đầy những kỷ niệm yêu thương gắn bó nhớ nhung. Ðã thế, bảo sao họ có
thể quên lãng cho được!
Ðó là một tình cảm thật thân thiết đậm đà nồng nàn, chứng
tỏ hình ảnh của ngôi chùa nó đã ăn sâu trong lòng người Việt Nam như là một dấu
ấn sâu đậm không thể nào phai nhòa trong tâm trí của họ. Chính vì lẽ đó, nên
chúng ta cũng không lạ gì, khi thấy bất cứ nơi đâu có đông đảo đồng hương Phật
tử sinh sống, thì chắc chắn nơi đó sẽ mọc lên ngôi chùa.
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Chùa là một biểu tượng thiêng liêng thấm sâu vào lòng
dân tộc Việt từ ngàn xưa. Như nước thắm sâu vào lòng đất. Do đó, dù đã trải qua
mấy ngàn năm thăng trầm, thạnh suy, vinh nhục, vật đổi sao dời, qua phân ly tán,
nhưng hình ảnh của ngôi chùa vẫn mãi mãi hiên ngang hiện hữu tồn tại trong lòng
người dân Việt.
Quả đúng như lời thơ của Vũ Hoàng Chương đã viết:
Dân tộc ta không thể nào thua
Ðạo Phật ta đời đời sáng lạn
Dầu trải mấy qua phân ly tán
Nhưng vẫn còn núi còn sông
Còn chót vót mãi ngôi chùa.
Ðây cũng còn là nơi để chúng ta tôn thờ hướng lòng tri
ân và báo ân đối với các bậc tiền nhân, những vị đã có công lao dựng nước và giữ
nước, gần nhứt là các đấng sanh thành đã dày công khó nhọc giáo dưỡng chúng ta
nên người.
Về thực chất đạo đức, ngôi chùa còn có tác dụng trực
tiếp hướng dẫn con người hướng thiện. Nền luân lý đạo đức của Phật giáo dạy người
Phật tử phải ăn ở hiền lành. Năm giới cấm của người Phật tử tại gia, đó là 5 nguyên
lý đạo đức căn bản mà người Phật tử phải giữ gìn cẩn thận. Ðồng thời phải ý thức
và áp dụng lý nhân quả vào đời sống.
Có thế thì người Phật tử mới tránh được những
điều tội lỗi. Ðó là hướng tiến thăng hoa đạo đức của người Phật tử trong việc
tu thân tề gia và đem lại nhiều lợi ích cho nhân quần xã hội. Thử hỏi được thế
do đâu? Nếu không có ngôi chùa, thì làm sao người Phật tử có thể quy tụ
công phu thực tập tu học thành công như thế?
Nói tóm lại, ngôi chùa ngoài hình thức ngoại diện như
lối kiến trúc thẩm mỹ mang tính chất nghệ thuật tuyệt hảo biểu trưng đầy đường
nét hoa văn dân tộc tính ra, nó còn có nhiều chức năng nhằm nuôi dưỡng đời sống
tâm linh và đóng góp xây dựng nếp sống đạo đức hiền hòa cao đẹp cho con người
theo chiều hướng thánh thiện.
Ðồng thời, nó cũng còn đáp ứng được những nhu cầu
tín ngưỡng, thờ phụng, lễ bái, tu học, sinh hoạt xã hội của mọi tầng lớp dân
chúng. Do đó, ngôi chùa thật là quan trọng mà chúng ta cần phải có bổn phận bảo
tồn duy trì và phát huy mạnh mẽ trong tinh thần phụng sự nhơn sinh vậy.
Tác giả bài viết: Thích Phước Thái
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự