Từ khi trời đất đã khai sinh thì có muôn loài thực vật
và động vật sinh sống, nhưng loài nào cũng muốn sống thọ và sợ chết (tham). Mà trong
cuộc sống được sinh tồn và truyền nối mãi phải hợp hai thứ âm dương giao nhau mới
sinh sôi nảy nở (si). Và để gìn giữ sinh mạng được lâu dài thì những loài mạnh
khôn hiếp loài yếu dại, tranh giành xâu xé lẫn nhau, tạo sự bất hòa không cân bằng
mà sanh ra ganh ghét, thù hằn lấn áp để giành sự sống, do đó có sân hận từ đời
này sang kiếp nọ.
Vậy từ khi muôn loài hình thành là có tham sân si, bởi
có tham sân si nên mới có ba cõi sáu loài lên xuống thay hình đổi tướng, nhưng
tùy theo nghiệp lực riêng của mỗi loài mà có sai biệt chênh lệch, sung sướng
hay khổ đau.
Người hành đạo hãy thận trọng đối với ba độc, phải biết
nguồn gốc của nó và khéo dùng trí tuệ sáng suốt để vượt qua.
Đây xin lược dẫn ở hồi 75-78 truyện Tây Du Ký để nói
lên gốc của ba độc.
... Mấy thầy trò đang đi trên đường bỗng gặp vị hộ
pháp bảo phía trước có ba yêu tinh ở động Sư đà rất hung ác.
Nghe vậy, Tôn Hành Giả đi dò xét gặp một tiểu yêu tuần
núi, Tôn Hành Giả liền biến ra tiểu yêu ăn mặc giống y vậy để hỏi hạch tông
tích của ba yêu tinh. Tiểu yêu vì không biết nên nói:
- Đại vương Một có tài biến to lớn hả miệng thâu người,
cho đến mười thiên binh nhà trời đều thâu hết,
- Đại vương Hai có tài biến thân voi to lớn, dùng vòi
cuốn người.
- Đại vương Ba, không phải quái vật ở phàm, hay đè
gió, giốc sông, có bảo bối là bình âm dương hai khí, người bị cuốn vào một lúc
sẽ hóa ra nước.
Tôn Hành Giả nghe nói cả ba yêu tinh đều muốn bắt Đường
Tăng ăn thịt. Khi hỏi xong, Tôn Hành Giả đánh chết tiểu yêu đi tuần, rồi hóa lại
giống tiểu yêu đó trở về động báo cáo.
Do dò xét để sơ hở lộ ra nên Tôn Hành Giả bị bắt bỏ
vào bình âm dương.
Tôn Hành Giả dùng thủ thuật khoan lủng bình âm dương
thoát thân. Yêu tinh Một nổi giận ra đánh Tôn Hành Giả, thấy đánh không lại, nó
bèn hóa một người to hả miệng thâu Tôn Hành Giả vào bụng.
Tưởng là đắc thắng, ai dè bị Tôn Hành Giả ở trong bụng
quậy đau quá phải van xin tha mạng và hứa sẽ đưa mấy thầy trò qua núi, nên Tôn Hành
Giả mới chịu ra.
Khi Tôn Hành Giả ra yêu tinh Hai và Ba trở mặt đánh.
Yêu tinh Hai hiện thân voi to lớn lấy vòi cuốn đánh Tôn Hành Giả, bị Tôn Hành Giả
dùng thuật nắm vòi đánh túi bụi, nó mới quy hàng chịu đưa mấy thầy trò qua
núi... Khi về động yêu tinh Ba bày kế, khi đưa sẽ bắt Đường Tăng...
Tôn Hành Giả lúc đó vui mừng không biết mưu mẹo của
chúng nên đi trước dọn đường, bỗng thấy trước mặt có thành trì nhiều ác khí do
yêu tinh hóa hiện, vừa dừng lại thì ba yêu tinh ở sau ra tay đánh phản.
Bị đánh bất ngờ mấy thầy trò phản ứng không kịp nên bị
bắt hết về động. Tôn Hành Giả dùng thuật thoát ra cứu thầy và các sư đệ trốn đi
giữa đêm. Yêu tinh phát giác bắt lại nhốt mỗi người một nơi. Tôn Hành Giả thoát
được vào động dò xét, yêu tinh Ba đánh lừa phao tin Đường Tăng đã bị ăn thịt,
làm cho Tôn Hành Giả nản chí.
Tôn Hành Giả tưởng thật, vừa tức vừa buồn, đi đến Như
Lai tuần tự trình bày sự việc. Như Lai cười nói chớ có phiền não, vì Ngài biết tông
tích của ba yêu tinh. Như Lai gọi A Nan đi mời hai ngài Văn Thù và Phổ Hiền đến
rồi nói với Hành Giả "Đây là chủ của hai yêu tinh Một và Hai, còn yêu tinh
Ba thì đích thân Như Lai mới thâu được". Phật cùng hai Bồ Tát và Tôn Hành
Giả đến động. Tôn Hành Giả vào khiêu chiến giả thua chạy về hướng Phật, ba yêu
tinh không biết nên đuổi theo.
Khi gặp hào quang của Phật, yêu tinh Một và Hai nhủn cả
tay chân, chỉ có yêu tinh Ba thúc hai yêu kia cầm gươm tiến đến giết Như Lai và
cướp lấy Lôi Âm (nơi Phật ngự). Yêu tinh Một và Hai vừa tiến lên liền bị ngài
Văn Thù và ngài Phổ Hiền đọc thần chú, cả hai đều ngã xuống hiện nguyên hình là
con sư tử lông xanh và con voi trắng.
Còn yêu tinh Ba chưa chịu hàng phục, nên Như Lai dùng
phép làm nó nhủn cả người không chạy được, hiện nguyên bản tướng là con Đại
bàng Kim Sí Điểu xin đầu phục quy y theo Phật. Tôn Hành Giả đến động cứu thầy
và sư đệ ra...
Lược dẫn một đoạn cho thấy yêu tinh Một là ngụ ý chỉ
cho tham, vì nó có tài biến hóa rất lớn, há miệng nuốt đến mười thiên binh nhà
trời, ý nói lên lòng tham quá to tát, bao nhiêu cũng thâu gom.
Yêu tinh Hai chỉ cho sân, tượng trưng cho voi, vì voi
là một con vật có sức mạnh và khi nóng giận nó dùng sức mạnh để giết hại, hoặc
phá nát tất cả những gì làm chướng ngại nó. Cũng vậy, niệm sân hận rất mạnh có thể
phá hết tất cả công đức do mình đã tạo ra từ trước, cho nên người xưa nói:
"Nhất niệm sân tâm năng thiêu vạn lâm công đức" là ý này vậy.
Yêu tinh Ba ngụ ý cho si (cội gốc vô minh) là cái bất
giác tiềm ẩn trong tạng thức do ta huân tập. Nó có bảo bối bình âm dương hai
khí là tượng trưng cho sự si mê của chúng sinh, khi thấy hai tâm tưởng về nhục dục
(nam nữ hay đực cái) đang ân ái, nơi âm dương giao nhau (noãn bào và tinh trùng
hòa hợp) phát ra ánh sáng (lửa dục) thì thức thần bị hành nghiệp thúc dục tìm đến
nơi đó khởi tâm tưởng ái dục vào đó để cảm thọ mà có sắc thân này, gọi là ái
nghiệp, giống như khi bắt bỏ vào bình âm dương thì bị ra nước.
Tức là khi vướng vào ái nghiệp (chấp mắc vào nhị
nguyên - âm dương hai khí) thì sẽ mất Thân huệ mạng mà chỉ có nước ái đượm nhuần.
Và chúng ta phải hiểu sâu xa hơn về hai chữ ái nghiệp này; có nghĩa là ái chấp,
ái nhiễm quá sâu đậm, chớ ái dục chỉ là một phần trong ái chấp mà thôi.
Còn khoa học ngày nay cấy tinh trùng (dương) vào noãn
bào (âm) cho vào ống nghiệm để tạo ra con người, thì cũng là do âm dương gặp
nhau phát ra ánh sáng, do sức mạnh của hành nghiệp thúc dục thần thức thấy ánh
sáng đó mà phát lửa dục chiêu cảm đến thọ nhận gá vào, nên có đời sống mới tiếp
nối.
Đây nói tham không phải chỉ tham đắm ngũ dục bên ngoài
thôi mà là lòng tham tột đỉnh tiềm ẩn trong tạng thức để nuôi lớn tự ngã này.
Hoặc giả như hành đạo muốn biết được tâm người, mong có thần thông, tu cho mau
giác ngộ, giải thoát để độ sinh v.v... mà không biết đó cũng chính là tham.
Nếu khởi nhân tham để hành đạo thì không bao giờ đạt kết
quả giác ngộ giải thoát. Vì tham là nhân sanh diệt, nếu được kết quả đi chăng nữa
thì chỉ là cái quả trong sanh diệt chớ chẳng phải đúng quả chân chánh. Một khi
trí tuệ hiện hữu thì tham sân vắng bóng. Ngược lại tham sân ngự trị ở lòng thì
trí tuệ bị lu mờ, giống như yêu tinh Một bắt được Đường Tăng, nó ôm cứng lại sợ
Tôn Hành Giả đến cứu vậy (hồi 75).
Nhưng muốn đạt đúng chánh quả thì phải chọn đúng chánh
nhân. Nếu là chánh nhân thì trong ấy không có bóng dáng tham sân si, mà tham
sân si là từ có niệm khởi động, nếu còn vọng niệm tức không ngoài chấp ngã và chấp
pháp.
Thành thử, muốn chọn đúng nhân an lạc giải thoát phải
nhận định rõ về hai trạng thái (tạm nói) tâm ở chính ta, xem cái nào sanh diệt
vô thường khi có khi không thì đừng chấp mắc, hãy buông xả, và thấu rõ nơi ta
có cái thanh tịnh sáng suốt thường hằng bất biến.
Chính cái đó xưa nay chưa từng sanh diệt và chưa từng
động huống nữa là tịnh (có động nên mới lập tịnh), vượt cả những danh từ trên
nhị nguyên đối đãi. Cho nên giác ngộ là nhận ra cái thanh tịnh sáng suốt không
sanh diệt, luôn hằng sống thì làm lợi ích mới không dính mắc, vì trong đó không
còn ngã chấp, nên khi làm là vì lợi tha, mà ngã chấp hết thì pháp chấp cũng
không còn. Song hễ còn ngã tức là còn pháp, vì ngã pháp do tương đãi nhau mà lập.
Là người hành đạo phải có trí tuệ sáng suốt tận thâm
tâm chiếu soi muôn pháp mới đi đúng đường giải thoát không sợ lầm lạc, nên lòng
tham phải chịu khuất phục chẳng sanh khởi, nếu không thì dễ bị rơi vào lối tẽ,
giống như Tôn Hành Giả vào bụng yêu tinh thì nó đành phải chịu thua vậy.
Khi lòng tham không được như ý muốn nên dễ sân hận,
lúc nó phát khởi khó mà kềm chế được, giống như voi san bằng tất cả những chướng
ngại khi nó nổi giận. Nếu có sáng suốt và định tỉnh hiện hữu thì niệm sân mới
không bộc phát. Giống như yêu tinh Hai dùng vòi cuốn Tôn Hành Giả mà cuốn không
được, trái lại bị Tôn Hành Giả dùng gậy đánh vào mặt và nắm vòi dẫn đi.
Si là vô minh, là cái bất giác lầm lẫn không biết lẽ
thật, do si dẫn dắt thành ra có tham, tham không được nên có sân. Vì vậy si là
cái khởi đầu để bắt cầu cho tham và sân. Cho nên lúc yêu tinh Một và Hai hàng phục
còn yêu tinh Ba không chịu mà bày kế để bắt Đường Tăng, và hai yêu tinh kia
nghe lời nên thắng trận. Lại phao tin Đường Tăng đã bị ăn thịt để Tôn Hành Giả
nản chí thối tâm không tìm hang động của chúng cứu Đường Tăng nữa cũng là yêu
tinh Ba.
Cho đến gặp Như Lai nó còn bảo yêu tinh Một và Hai tiến
lên đánh cướp Lôi âm nữa. Phải biết si là cái mê tối thâm căn chẳng biết thế
nào là chân ngụy, chánh tà…, chỉ làm càn theo bản năng thú tính phải bị trôi
lăn lẩn quẩn trong ba nẻo sáu đường mà trong kinh gọi là "căn bản vô
minh" .
Bởi cái thanh tịnh sáng suốt an nhiên thênh thang đó
chưa hề chao động, nhưng do một niệm bất giác hướng ngoại lao theo muôn pháp,
si mê không biết lối về nên tạo không biết bao nhiêu tội lỗi. Khi đã thức tỉnh
giác ngộ biết sai lầm hồi đầu mà tập nghiệp vẫn còn. Nó là cái bất giác vi tế,
tuy có trí tuệ nên không đến nỗi bị hại đến thân huệ mạng nhưng chưa dứt hẳn.
Người hành đạo phải thận trọng đối với si, khi có một
niệm bất giác nó sẽ dẫn ta đi không cùng, giống như Tôn Hành Giả vui mừng khi
nghe ba yêu tinh chịu đưa mấy thầy trò qua núi, vì chủ quan không biết mưu mẹo của
chúng nên mấy thầy trò đều bị bắt, chỉ có Tôn Hành Giả là thoát được.
Nếu trên đường hành đạo mà dễ dàng thì ai ai cũng
thành Phật hết khỏi phải khổ tâm nhọc sức. Bởi vì những tập nghiệp do huân nhiều
đời kiếp nên nay phải có công phu để chuyển hóa. Khi nào chuyển hóa sạch được
trong trắng mới hưởng an lạc thái bình, còn đang trên đường hành đạo thì phải
gian nan nhọc công bởi gặp những chướng nạn trở ngại.
Thành thử, từ nhân đến quả phải đánh đổi một giá rất đắt.
Ngài Hoàng Bá có dạy: "Chẳng phải một phen xương lạnh buốt. Hoa mai đâu dễ
ngửi mùi hương". Nghĩa là muốn hưởng được mùi hương hoa mai thì phải chịu cái
lạnh buốt xương của mùa đông vậy. Cho nên Ngô Thừa Ân viết: "Là người ai
chẳng qua rừng gai góc, gai góc phương Tây mới khác thường" (hồi 64).
Làm người ở trên đời chẳng có ai mà được suôn sẻ mọi
việc hoàn toàn như ý muốn. Nói chung ai ai cũng đều gặp phải hoàn cảnh khó khăn
trở ngại (gai góc), nhưng con người có biết chuyển hóa và vượt qua được hay không
là tùy thuộc vào ý chí của mỗi người.
Còn gai góc phương Tây khác thường là thế nào? Đây nói
người hành đạo gặp phải những chướng ngại khó khăn từ ngoại cảnh đến nội tâm, chúng
giống như là gai góc làm cản trở bước tiến hành giả đang trên đường giải thoát,
nên nói là khác thường. Vì vậy, Ngô Thừa Ân viết, khi mấy thầy trò đi đến Kinh
cức lĩnh (núi gai góc) thấy có hai câu đề rằng:
"Gai góc quấn chằng tám trăm dặm.
Từ xưa có lối, ít người đi".
Thật vậy, từ ngàn xưa chính Đức Phật và chư Tổ vạch đường
mở lối đi đến nơi an lạc giải thoát, thế mà cho đến nay trong nhân gian có được
mấy người đang đi đúng đường của Phật, Tổ vạch sẵn? Khi Bát Giới đang mở đường
thấy hai câu đó, liền hứng chí làm thêm hai câu:
"Tới nay Bát Giới tài khai phá.
Sang tận Tây phương lối phẳng lì."
Ở đây ta thấy, tại sao Ngô Thừa Ân chỉ nói Bát Giới
khai phá rừng gai góc, mà không nói Tôn Hành Giả hay Sa Tăng khai phá? Vì Bát
Giới chỉ cho năm thức bị thức thứ sáu hòa đồng thành "ý thức ngũ câu"
kéo năm thức vượt khỏi cảm giác thuần túy như đã nói ở trước, nên năm thức dễ
dàng đắm nhiễm trần cảnh.
Nhưng khi ý thức đã chuyển hóa thì năm thức khi đối cảnh
có trí tuệ chủ động nên năm thức hạn chế dần dần chẳng ái nhiễm dính mắc trần cảnh
nữa. Do đó nói vượt qua rừng gai góc để sang tận Tây phương là do Bát Giới mở lối.
Bởi ở thế gian con người còn đầy dẫy tham sân si nên có rất nhiều sự khổ não,
nhưng người hành đạo thì ngược lại, là phải dứt hết ba thứ đó mới an lạc giải
thoát được.
Vì thế, trong thiền tông có thuật ngữ "Kinh cức"
(gai góc) để tượng trưng cho sự khó khăn gian khổ, mà người tu phải trải qua
trong quá trình hành đạo. Như bài tham thiền kệ ca trong Thiền Tịnh Hợp Yếu của
thiền sư Phương Tụ Thành ghi:
Pháp tham thiền bậc nhất
Có gì để nuối tiếc
Buông quách cả toàn thân
Thấu qua rừng gai góc.
Thật vậy, người hành đạo là đi ngược dòng sanh tử nên
khác hơn người thế gian. Như khi chưa thức tỉnh giác ngộ, sáu căn tiếp xúc với
sáu trần theo đuổi tìm mọi thú vui dục lạc để cảm thọ thành thói quen. Nay phải
đi ngược lại không cho dính mắc đắm nhiễm, đó là những khó khăn gian lao mà người
hành đạo phải trải qua để tiến đến cứu cánh giác ngộ giải thoát.
Thành thử muốn dứt hết tham sân si phải dùng trí tuệ
biết gốc gác của nó phát xuất từ đâu mới diệt tận gốc được, giống như Tôn Hành
Giả đến Như Lai cầu cứu, Như Lai mời hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền xuống động
hàng phục yêu tinh vậy.
Bồ Tát Văn Thù là hình ảnh tượng trưng Căn Bản Trí; đọc
thần chú chỉ cho định tâm; con Sư Tử Ngài cưỡi là phương tiện, ý nói là diệu dụng
của trí tuệ. Nhưng khi trí tuệ chưa phát sanh thì lòng tham trỗi dậy làm cho tự
ngã càng ngày càng lớn, không biết những người chung quanh miễn sao vừa ý đẹp
lòng mình mà thôi, đó là cái dụng của tâm thức chúng sinh được tượng trưng cho
yêu tinh Một.
Sau đó yêu tinh gặp chủ của mình là Bồ Tát Văn Thù và
nghe câu thần chú thì hiện nguyên hình sư tử, là ý nói lúc đã giác ngộ có trí
tuệ và định tâm thì lòng tham tự kỷ mất, luôn vì chúng sinh giúp ích lợi lạc họ
xem như là tham, nhưng mà tham vì lợi tha, nên nói từ tự tánh trí tuệ khởi diệu
dụng làm lợi ích. Vì vậy Trí và Bi phải đầy đủ, khi công hạnh tròn đầy lên ngôi
Chánh quả.
Ngài Phổ Hiền là hình ảnh biểu trưng nói lên lập hạnh
vị tha, cũng có nghĩa là từ bi hóa độ. Con Voi trắng là phương tiện để Ngài cưỡi,
đọc thần chú là định tâm. Nhưng khi không có lòng từ bi thương người vật và chẳng
định tâm thì con người lúc gặp cảnh trái ý nghịch lòng dễ phát sanh niệm buồn
phiền sân hận, cho nên luôn tật đố ích kỷ mà tạo ra muôn vàn tội lỗi, đó là cái
dụng của tâm chúng sanh được tượng trưng là yêu tinh Một.
Vì vậy khi lập hạnh vị tha vì người giáo hóa, nếu
không định tâm thì dễ sanh phiền não sân hận. Vì chúng sinh rất cang cường, nghịch
ngợm khó tiếp dẫn độ họ, nên lập hạnh cứu giúp chúng sanh phải có lòng từ bi và
định tâm chuyển hóa sân hận làm tăng sức mạnh hạnh vị tha là tượng trưng cho
voi trắng, vì làm chủ được mình (định) là có một sức mạnh không sức mạnh nào bì
kịp nên sân hận không có mầm phát triển được.
Si là cội gốc bất giác mê lầm, mà Phật thì toàn giác,
tức tâm thanh tịnh sáng suốt an lạc giải thoát. Khi đã giác ngộ hoàn toàn thì bất
giác không còn nữa.
Và ở hồi 17 cũng nói về nghiệp tham, sân. Xin lược dẫn
một đoạn.
Đường Tăng và Tôn Hành Giả đi đến tự viện Quan Âm vào
xin tá túc qua đêm... Đường Tăng hỏi thăm sức khỏe vị trụ trì và chúc mừng qua lại,
rồi Tôn Hành Giả hứng chí đem chiếc y Ca sa mới đẹp của Đường Tăng ra khoe.
Lão Hòa thượng khi thấy y Ca sa đẹp liền sanh lòng
tham muốn chiếm đoạt nên hỏi mượn về phương trượng xem kỹ sáng sẽ trả lại. Tôn Hành
Giả liền đưa. Do tham đắm không muốn rời chiếc y đẹp, Lão Hòa thượng không ngủ
được, các đệ tử đến hỏi thì lão nói muốn giữ chiếc y không muốn trả, nên có hai
đệ tử bày mưu chất củi đốt giết thầy trò Đường Tăng để lấy y Ca sa.
Tôn Hành Giả biết được thức dậy thổi gió ngược lại nên
chỗ Đường Tăng nghỉ không cháy, còn tất cả nơi nhà tăng ở đều bị cháy sạch...
Yêu Gấu động Hắc Phong đang ngủ giật mình thấy lửa cháy liền đến giúp chữa.
Vì lão Hòa thượng cùng với yêu tinh kết bạn làm thân với
nhau. Yêu Gấu vừa đến thấy ánh hào quang của y Ca sa tỏa ra biết là vật quý bèn
đánh cắp trốn về động chớ không chữa cháy. Hôm sau yêu Gấu mời các bạn đến xem
vật quý và ăn mừng khánh tuế...
Tôn Hành Giả tìm đến động để lấy y Ca sa lại cho thầy,
rồi hai bên đánh nhau, yêu tinh đánh không lại bỏ trốn vào động mấy lần nên Tôn
Hành Giả không làm gì được mới đi cầu viện Bồ Tát Quan Âm đến giúp.
Bồ Tát cùng Hành Giả đến động. Giữa đường Tôn Hành Giả
gặp bạn của yêu Gấu tên Lăng Hư Tử đang trên đường đến chúc mừng bạn. Nó có đem
theo hai viên tiên đơn, Tôn Hành Giả liền đánh chết rồi lập kế nói với Bồ Tát:
"Bồ Tát nên biến ra yêu tinh, còn Tôn Hành Giả uống một viên tiên đơn, sẽ
hóa lại một viên to hơn, để Bồ Tát biết mà dâng viên to cho yêu tinh, khi nó nuốt
vào, Hành Giả sẽ ở trong bụng thì nó mới chịu hàng". Bồ Tát đồng ý. Khi Bồ
Tát biến làm Lăng Hư Tử, Tôn Hành Giả nói: "Bồ Tát là yêu tinh hay yêu
tinh là Bồ Tát".
Bồ Tát nói: "Ngộ Không, Bồ Tát, yêu tinh đều là
nhất niệm, nếu bàn đến gốc đều là không có".
Bồ Tát Quan Âm biến giả làm Lăng Hư Tử cầm hộp đựng
hai viên trường sinh đi đến động, yêu Gấu tưởng là bạn thật tiếp đón trọng hậu.
Lăng Hư Tử giả liền lấy viên tiên đơn to (do Tôn Hành Giả biến ra) đưa chúc mừng
yêu Gấu. Yêu Gấu nhận lấy uống vào thì Tôn Hành Giả hiện nguyên hình trong bụng
quậy phá lung tung, Nó đau quá nên đành chấp nhận chịu trả y Ca sa, Tôn Hành Giả
mới chui ra khỏi bụng yêu Gấu.
Sợ nó vô lễ, Bồ Tát lấy vòng chụp lên đầu và đọc thần
chú, yêu Gấu chịu không thấu xin quy hàng tha mạng. Tôn Hành Giả định giết thì Bồ
Tát ngăn lại nói để đem về cho làm thần giữ núi...
Lược dẫn một đoạn cho thấy, nếu người hành đạo mà vướng
mắc trong phương pháp mình tu hay sở chứng đều là tham cả.
Đây nói chiếc y Ca sa của Đường Tăng là chỉ cho vật
quí báu nên người xuất gia đệ tử Phật không được cách xa đêm - Y pháp bất ly
thân (y, pháp chẳng lìa thân), mà cũng là phương tiện để biểu trưng cho sự giải
thoát của người chân chánh hành đạo khi mặc chiếc y, do đó khi đắp y thì đọc
bài kệ:
Lành thay áo giải thoát
Áo ruộng phước vô thượng
Nay tôi đầu đội nhận
Đời đời thường chẳng lìa.
Bởi vì người đã phát tâm xuất gia đắp y Ca sa, là người
có chí nguyện mong vươn lên vượt ra khỏi trần lao khổ hãi để tự tại an nhiên giải
thoát, thì vị đó không phải là hạng tầm thường mà phải có nghị lực và ý chí lắm
mới có thể đạt được như nguyện.
Nhưng trên đường tiến đến mục đích tối thượng ấy có rất
nhiều chướng ngại đang rình rập ngăn đón cản lối làm trở ngại bước tiến của
hành giả. Nếu hành giả mà vượt qua được thì mới gọi là người xuất cách.
Nghe đâu Đức Phật ở trên núi Linh Thứu nhìn xuống cánh
đồng lúa chín mênh mông phía dưới, Ngài khéo phương tiện liền bảo các đệ tử hãy
nên may y Ca sa có nhiều mảnh vải ghép nối dọc nối ngang (gọi là Điều - y 5 điều,
7 điều…), giống như những bờ đê ruộng phân chia từng ô ngang, ô dọc trên mảnh đất
rộng ngăn nước để gieo cấy lúa vậy.
Để nói lên rằng các đệ tử Phật khi đắp y Ca sa phải biết
mình là người đang hành đạo giải thoát vượt mọi phiền trược đắm nhiễm ái chấp, là
nơi cho mọi người làm chỗ nương tựa học hỏi noi theo đức hạnh cao thượng ấy, và
cũng là chỗ để họ gieo duyên tạo phước báo nhân thiên, giống như là họ gieo cấy
lúa trên mảnh đất có đê ngăn giữ nước cho lúa được phát triển tươi tốt đến kết
hạt và thu hoạch như ý nguyện vậy.
Đây nói rằng, tuy phương pháp mình ứng dụng tu là quí
báu nhưng đó chỉ là phương tiện, nếu chúng ta mắc kẹt trên phương pháp không
dám buông xả thì vẫn bị trói buộc, nên có câu: "Mạc vàng tuy quí nhưng rơi
vào mắt vẫn bị xốn". Hay là chấp có sở chứng, nghĩa là có chỗ để an trú (chấp
nhận ở quả vị nào đó dù là quả vị Niết bàn), tức bị dính mắc pháp không tiến đến
cứu cánh viên mãn.
Nếu vướng mắc các phương diện đó đều gọi là tham, giống
như lão Hòa thượng thấy chiếc y của Đường Tăng mà tham đắm vậy. Hễ còn chỗ trụ
bám thì chưa xả bỏ hết, vì còn NGÃ tức chủ thể (thấy có mình là người tu, người
chứng); hễ có chủ thể tức có đối tượng là NHÂN - chỗ mình nương tựa (là pháp tu
hay quả vị pháp tu); có ngã nhân là có những việc chung quanh bên ngã nhân, tức
có các pháp là CHÚNG SINH (thấy có mình tu, mình chứng và pháp tu, quả vị pháp
tu); có ba thứ trên tức có sự thưởng thức cảm thọ trên pháp là THỌ GIẢ (thấy có
mình đang ở trong trạng thái an lạc tỉnh sáng).
Từ chỗ nhìn này ta thấy, nếu người bị kẹt trong tứ tướng
là chưa đạt rốt ráo cứu cánh. Nên người xưa nói: "Đã đến vô tâm, vô cũng
thôi" thì mới thấy không còn bốn tướng.
Đây nói yêu tinh động Hắc Phong là chỉ cho niệm phiền
não sân hận. Từ có lòng tham nên nó đi đôi với niệm sân. Tự hỏi lý do tại sao
có sân? Vì không vừa ý mình nên sân hận phát khởi. Vì sao không vừa ý như lòng?
Vì còn lòng tham sinh khởi, muốn các đối tượng phải theo như ý mình (làm gì mà
được hoàn toàn như ý?), nên có sân. Lại hỏi vì sao có tham? Vì thấy có ngã nên
có tham.
Nếu không có ngã thì tham cái gì bây giờ ! Hễ còn ngã
tức là còn tham, (tham ái, tham chấp) bởi tham không được nên sân vậy. Do đó
trong truyện nói lão Hòa thượng làm bạn với yêu Gấu là thế. Còn Tôn Hành Giả biết
mưu kế lão Hòa thượng mà vẫn để cho làm chớ không ngăn cản, lại còn lấy "gậy
ông đập lưng ông" làm cho lão phải đập đầu chết. Đây ý nói khi trí tuệ hiện
diện thì lòng tham không còn tác động.
Sau đó Tôn Hành Giả đánh với yêu Gấu, nó đánh không lại
phải dùng kế hoãn binh về động đóng cửa làm Tôn Hành Giả cụt hứng, nên phải đi
mời Bồ Tát Quan Âm đến để dụng kế lừa nó thì Tôn Hành Giả mới vào được trong bụng,
nó mới chịu quy hàng.
Đây ý nói rằng khi niệm sân hận bộc phát chỉ có trí tuệ
bên trong (tâm tĩnh lặng sáng suốt) thì niệm sân hận mới quy phục về nơi rỗng lặng.
Nếu dùng trí tuệ bên ngoài do học hỏi để áp dụng thì niệm sân chưa dứt hẳn mà
nó còn ngầm ẩn bên trong (yêu Gấu đánh không lại Tôn Hành Giả chạy về động đóng
cửa) để chờ đủ duyên phát khởi.
Tóm lại muốn niệm sân dứt hẳn tận gốc phải có trí tuệ
tự thâm tâm phát xuất, và có lòng từ bi đối với muôn loài, muôn vật thì niệm
sân mới không phát khởi.
Xin dẫn câu chuyện nói về niệm sân thế này:
Tướng công Vu Địch hỏi thiền sư Đạo Thông ở núi Tử Ngọc:
"Thế nào là ngọn gió dữ thổi chiếc thuyền trôi dạt vào cõi nước La
Sát".
Ngài Đạo Thông bảo:
- Kẻ khách Vu Địch hỏi việc vớ vẩn đó để làm gì?
Vu Địch liền đổi sắc mặt (đỏ mặt).
Sư liền chỉ Vu Địch bảo:
- Đó hắc phong thổi trôi dạt vào cõi nước quỷ La Sát.
Vu Địch liền biết lỗi.
Tướng công hỏi câu đó ở trong kinh Pháp Hoa, nguyên
chánh văn là "...Giả sử hắc phong xuy kỳ truyền phưởng, phiêu đọa La Sát
quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu nãi chí nhất nhơn, xưng Quan Thế Âm Bồ Tát danh giả,
thị chư nhơn đẳng giai đắc giải thoát La Sát chi nạn...". Nghĩa là nếu có
những người vào trong biển lớn đi tìm các thứ báu, giả sử bị gió lớn (gió lốc)
thổi ghe thuyền họ trôi tấp nơi nước quỷ La Sát, mà trong số ấy nếu có người
xưng danh hiệu Bồ Tát Quan Thế Âm thì họ đều được thoát khỏi nạn quỷ La Sát hại.
Ở đây cho thấy, niệm danh hiệu Bồ Tát Quan Thế Âm theo
kinh Lăng Nghiêm thì Phật nói: "Bồ Tát Quan Thế Âm tu hạnh phản văn văn tự
tánh", tức là xoay lại sống với tự tánh hằng nghe bất động thì mọi chướng
nạn đều qua hết.
Ví như có người tranh chấp sự việc gì đó với mình, họ
có những lời nói, hành vi hung dữ mà mình biết phản quan lại tự tánh nghe thì
mình không có niệm giận hờn để ăn thua đủ với họ, đó là Bồ Tát Quan Thế Âm cứu
mình rồi. Người hỏi nếu bị hắc phong thổi vào chỗ quỷ La Sát thì Ngài Đạo Thông
không theo lời hỏi để giải và cũng chẳng nói hắc phong là gió thổi ào ạt mây
đen mù mịt, mà Ngài nói hắc phong là niệm sân phát khởi ở con người, nên Ngài
dùng phương tiện chỉ thẳng ngay đương sự tự cảm nhận lấy. Còn quỷ La Sát là chỉ
cho ngọn lửa sân. Bởi có gió (hắc phong) tức là động, mà động là vọng động hay
vọng niệm, có ý niệm sân hận nên lửa sân mới bộc phát ra thân và khẩu.
Bồ Tát Quan Âm là tượng trưng cho tâm từ bi, chiếc
vòng chụp lên đầu yêu tinh là giới, câu thần chú là định. Niệm sân ẩn tàng ở
đâu không thấy, nhưng khi gặp đủ duyên thì phát khởi. Trong cuộc sống nhiều lúc
những nghịch cảnh đến làm ta dễ sân hận, tuy có trí tuệ mà không từ bi và định
tâm thì khó yên được.
Nếu có yên chỉ yên bề ngoài, nhưng trong lòng vẫn ấm ức
còn mống niệm hờn dỗi không dứt đến tận gốc, giống như Tôn Hành Giả khi chưa cầu
Bồ Tát mà đánh với yêu tinh vậy. Nên phải định tâm và phát khởi từ bi thì niệm
sân hận tự hóa tán. Vì thế Tôn Hành Giả nói: "Bồ Tát là yêu tinh hay yêu
tinh là Bồ Tát".
Bồ Tát bảo: "Ngộ Không, Bồ Tát, yêu tinh đều là
nhất niệm, bàn đến gốc đều là không có". Đây nói trí tuệ, từ bi hay
sân hận đều từ tâm dấy khởi, nếu luận đến gốc của tâm thì không có dấu vết .
Như trước đã nói, Bồ Tát Quan Âm là tượng trưng cho
tánh nghe. Nếu đang lúc sân hận hãy trở về với tánh nghe thì niệm sân dừng lặng.
Bởi tánh nghe là khi có tiếng hay không tiếng thì cái hằng nghe luôn hiện hữu;
lúc có tiếng gọi là sanh, khi tiếng mất gọi là diệt, còn cái Rõ Biết rỗng lặng ở
tai khi có tiếng thì rõ biết có tiếng, khi không tiếng rõ biết không tiếng.
Chính cái Rõ Biết đó chưa từng có không, chưa từng
sanh diệt. Do chúng ta quen chạy theo trần cảnh mà quên đi cái hay nghe hằng hữu
này nên tâm trí bị mờ, vì thế tham sân mới có dịp dẫn chúng ta tạo không biết
bao nhiêu tội lỗi. Khi những cảnh thuận hay nghịch có đến phải luôn nhớ trở về
sống với tánh nghe thì không bị ngoại cảnh chi phối, niệm sân mới chẳng khởi,
giống như khi Bồ Tát Quan Âm đến động thì yêu tinh phải chịu đầu phục vậy.
Và ở hồi 71, sau khi Tôn Hành Giả dụng kế dụ yêu tinh
lấy ba bảo bối "Nhạc vàng" của y. Khi giao chiến, Tôn Hành Giả lắc
lên thì lửa, khói, cát vàng bủa khắp đốt yêu tinh. Nó sợ hãi cuống cuồng thì Bồ
Tát Quan Âm xuất hiện dùng nước trong tịnh bình rưới tắt lửa, khói, cát. Yêu tinh
gặp Bồ Tát liền phủ phục hiện lại nguyên hình là con Sấu lông vàng của Bồ Tát
dùng để cưỡi. Bồ Tát bảo Tôn Hành Giả trả lại ba bảo bối, nên có hai câu thơ
như vầy:
Ai cởi nhạc vành trên cổ Sấu
Nhạc vàng kẻ cưỡi hỏi người đeo.
Đây ý nói rằng, người hành đạo, nếu hoàn cảnh sống thiếu
vật chất hoặc gặp khó khăn gì đó nơi thân thì người khác có thể giúp đỡ mình
lúc hoạn nạn ấy. Nhưng tham lam, phiền não, sân si, cho đến vọng niệm bất giác,
vô minh nhiều đời không có ai giải quyết cho mình, mà chỉ có mình mới giải trừ
cho mình được. Hoặc mình có oan trái nghiệp lực nặng như thế nào đi chăng nữa
thì phải tự mình hóa giải lấy, chớ người ngoài như thầy bạn là thiện tri thức
đi nữa cũng không làm hết hẳn khổ cho mình được mà chỉ trợ duyên một phần nào
đó thôi.
Cho nên ngài Hoài Nhượng nói: "Tất cả các pháp đều
từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh pháp không thể trụ. Nếu đạt tâm địa việc làm
không ngại, không phải thượng căn dè dặt chớ nói".
Và ở hồi 40 - 43 cũng nói về nghiệp sân. Xin lược dẫn
một đoạn.
...Yêu tinh Hồng Hài Nhi đi bắt Đường Tăng, nhưng thấy
mấy đồ đệ Đường Tăng nhiều thủ thuật nên dè dặt, nó bèn giả một hài nhi bị trói
để đánh lừa lòng từ của Đường Tăng. Đường Tăng xiêu lòng cứu giúp bảo Tôn Hành
Giả cõng... Tôn Hành Giả biết là yêu tinh nên dùng thủ thuật giết đứa bé.
Nó liền xuất thần, thừa cơ hội hóa làm trận cuồng
phong bắt Đường Tăng về động...
Tôn Hành Giả gọi Thổ địa hỏi ra mới biết yêu tinh là Hồng
Hài Nhi con của Ngưu Ma vương, nên Tôn Hành Giả đến động nhìn người nhà và cứu
thầy... Bởi khi Tôn Hành Giả còn là Tề Thiên Đại Thánh hay kết bè bạn với sáu
Ma vương, trong đó có Ngưu Ma vương làm anh cả, còn Tề Thiên Đại Thánh là em
út...
Đến nơi, Hồng Hài Nhi không nhìn nên hai bên đánh
nhau... Hồng Hài Nhi phun lửa khói, Tôn Hành Giả không chịu được khói phải chạy
về cùng Sa Tăng bàn cách đối phó.
Sa Tăng nói: "Lửa xung khắc với nước, nếu có nước
dập lửa thì mới thắng được"... Tôn Hành Giả liền đến Long vương cầu viện
làm mưa để dập lửa... Tôn Hành Giả đến khiêu chiến, yêu tinh dùng chiêu thuật trước...
Tôn Hành Giả gọi Long vương làm mưa xuống, nhưng nước đến đâu lửa cháy lan tới
đó, Tôn Hành Giả sợ khói phải chạy, vì nóng quá nên nhảy xuống nước bị cúm người
suýt mất mạng...
Khi tỉnh lại sai Bát Giới đến cầu viện Bồ Tát Quan Âm.
Trên đường đi bị yêu tinh biết trước, nó hóa ra Bồ Tát bắt Bát Giới đem về động...
Tôn Hành Giả hay được phải gắng đi đến Bồ Tát Quan Âm cầu cứu...
Bồ Tát dùng tịnh bình lấy đầy nước cùng Tôn Hành Giả với
chim sáo trắng đi xuống động... Tôn Hành Giả vào động khiêu chiến, yêu tinh lại
phun lửa khói. Bồ Tát lấy nước trong tịnh bình tưới dập tắt ngọn lửa, yêu tinh
bại trận bị Bồ Tát thâu phục.
Bồ Tát lấy dao cạo tóc còn chừa ba chỏm, nhưng chưa dẹp
được dã tính hung hăng, nó định gây sự Tôn Hành Giả, Bồ Tát lấy chiếc vòng
"Tam khẩn cấm" của Như Lai cho vung lên biến thành năm chiếc vòng,
tròng vào cổ và hai tay, hai chân rồi đọc thần chú, các vòng xiết chặt lại làm yêu
tinh đau đớn, căm giận cầm giáo đâm Tôn Hành Giả, Bồ Tát liền nói: "chấp",
hai tay Hồng Hài Nhi chấp trên ngực không tài nào buông xuống được. Bồ Tát thâu
phục về làm người hầu.
Ở đây nói Hồng Hài Nhi là con của Ngưu Ma vương và Bà
La Sát. Ngưu Ma vương chỉ cho tâm vọng thức mà trong nhà thiền gọi là con trâu
đen hay con trâu cuồng. Còn Bà La Sát chỉ sự độc ác giận dữ. Hồng Hài Nhi là chỉ
cho niệm sân hận ngầm ẩn bên trong gọi là phiền não nên được tượng trưng qua
hình dáng một con yêu bé nhỏ.
Tuy nhỏ nhiệm nhưng vô cùng nguy hại, nó như một đốm
than hồng âm ỉ trong lòng chỉ chờ đủ duyên (khi cảnh phấn kích, tâm vọng động)
là bùng lên thành ngọn lửa sân tác oai tác quái làm hành giả khó tự chủ, tuy biết
nhưng không dừng được.
Vì lửa sân bộc phát biểu lộ hiện tượng trên thân, khẩu
là hình thức thô dễ thấy nên chúng ta có khả năng chặn đứng ngăn ngừa được; còn
chủng tử sân hận ẩn ở lòng rất tế nhị khó nhận ra, nó thật lanh lẹ dù biết mà vẫn
phát khởi khó kềm chế. Nên một niệm sân rất tai hại đối với người hành đạo,
nếu không tỉnh giác và định tâm thì nó sẽ bộc phát ra thân khẩu.
Thành thử nói Tôn Hành Giả không sợ lửa mà sợ khói là
ý này. Vì thế có câu: "Một niệm sân hận thiêu hết cả rừng công đức".
Ví dụ như, chúng ta tu hành hay là làm rất nhiều điều
thiện được mọi người xa gần biết đến, nhưng hôm nào đó đi cứu trợ một nơi gặp cảnh
khó khổ, vì vật dụng có hạn, khi đã cho hết quà mà người còn quá đông, họ đến
vây mình xin, trong đó có những người đã nhận quà rồi; lúc ấy ta vừa mệt, vừa
đói và còn nghe họ nói cho người này kẻ kia mà không cho họ, chợt bất giác ta lớn
tiếng cáu gắt cùng những hành vi không tốt với họ, thì mọi người trong đoàn và
dân địa phương sẽ đánh giá và chê trách mình chẳng phải là người thật tốt; từ
đó, bạn hữu ít giao du đến gặp mình. Đó là một việc nhỏ.
Hay là câu chuyện của đạo nhân tên Suy Hải, trước kia
được vua Lương tiếp rất trọng hậu, sau đó bị thử thách bạc đãi ngược lại, do
sân si tột độ phải vỡ tim chết đọa vào loài chim theo sự phát nguyện trong sự giận
dỗi "...sống nơi rừng núi làm bạn với cỏ cây muông thú, không đến chốn
cung đình phồn hoa nữa". Liền khi ấy thiền sư Chí Công biết trước việc,
nên nói với vua sai người đến bìa rừng hướng đông, có cây cổ thụ lên đó bắt
chim con về. Thiền sư cầm chim lên khai thị xong liền bóp chết chim, thần thức
xuất ra nhập vào thân đạo nhân Suy Hải lại; thiền sư bảo về tu hành cho chân
chính. Cho nên chúng ta hãy cẩn trọng chớ có xem thường niệm sân.
Bởi tâm sân này tiềm ẩn khi gặp duyên trái ý nghịch
lòng mới xuất hiện, dù có dùng những phương tiện nào bên ngoài vẫn không trừ được
tận gốc, giống như Tôn Hành Giả cầu Long vương làm mưa dập tắt lửa để giết yêu
tinh vậy. Dù Tôn Hành Giả có biết được tận gốc rồi, nhưng cũng phải giao chiến
gần mất mạng mà nó cũng chưa chịu hàng phải đi cầu viện Bồ Tát Quan Âm đến thâu
phục.
Cũng vậy, tuy có trí tuệ biết rằng niệm sân từ tâm
phát khởi, nhưng khi gặp nghịch cảnh đến cũng khó tự chủ được là bởi vì thiếu
lòng từ bi (Quan Âm) và định tâm (nước trong tịnh bình).
Ví như ta và người làm ăn hay có việc qua lại, vì một
sự hiểu lầm gì đó nên người đến nói ta gian lận, lấn hiếp rồi mắng nhiếc thậm tệ.
Nếu không bình tĩnh (định tâm) thì sẽ dễ khởi niệm phiền hận, nếu không bộc phát
ở ngoài nó sẽ ngấm ngầm bên trong làm cho tâm không yên ổn.
Còn thương nghĩ đến họ và bình tĩnh xét lại những việc
của mình xem có làm gì cho họ hiểu lầm là gian lận và lấn hiếp họ hay không? Nếu
có thì thành thật đến xin lỗi và bồi hoàn mọi sai sót ấy. Còn tự xét không có lỗi
thì nên cảm thương họ hơn là trách, vì họ hiểu lầm lại nông nổi mới có hành vi
như thế hãy thông cảm bỏ qua, có vậy mới chẳng còn ôm ấp niệm sân hận.
Vì từ bi là đối với sân hận, khi sân hận nổi lên thì từ
bi ẩn khuất nên dễ tạo nghiệp đưa đến trầm luân đọa lạc. Ngược lại có từ bi thì
sân hận hóa tán nên được an lạc. Các pháp thiện ác ở thế gian đều từ tâm thể rỗng
lặng mà có, tâm thì không hình tướng, bởi không hình tướng mới trùm khắp thênh
thang như hư không.
Còn những niệm thiện ác đều có tướng, hễ cái gì có tướng
thì đều bị phạm trù giới hạn, là dối sanh dối diệt. Cho nên vọng niệm thể của
nó vốn là không nhưng do bám chấp mà thành sự. Người trí (Bồ Tát) thấy nó có
như huyễn hóa nên tâm không chao động.
Chúng ta thấy, tại sao khi còn là Tề Thiên Đại Thánh
dùng gậy Như Ý đánh tới đâu thì các nơi đó đều quy phục? Như đánh với yêu tinh
đến giành động Thủy Liêm trong thời gian đi học đạo về, hay thiên binh nhà trời
đều đánh không lại với gậy Như Ý.
Nhưng sau khi được Đường Tăng cứu thoát khỏi núi Ngũ
Hành, Tôn Hành Giả phủ phục tôn Đường Tăng làm thầy và hộ trì sang Tây Trúc thỉnh
kinh, trên đường đi có yêu tinh ngăn cản, Tôn Hành Giả dùng hết sức đánh đôi
lúc cũng không thắng, có khi bị thâu mất gậy Như Ý phải đi cầu viện nơi khác đến
giúp. Sao lạ vậy?
Bởi khi còn là chúng sinh không biết đạo lý, ý thức
làm theo bản năng tự ngã, hễ nghĩ điều chi có lợi cho bản thân thì làm chớ chẳng
chịu xem xét chín chắn việc ấy có tổn hại đến người, đôi khi làm càn bướng theo
bản năng thú tính chẳng biết phải trái và hậu quả của nó ra sao cả, chỉ cố
tranh giành tính toán trăm phương ngàn kế mong đạt được lợi về mình mà thôi. Đó
là nói khi còn là Tề Thiên Đại Thánh dùng gậy Như Ý đánh đâu được đó.
Còn lúc hộ trì Đường Tăng cũng dùng gậy Như Ý đánh với
yêu tinh không phân thắng bại, đôi lúc đánh chẳng lại nó phải đi cầu cứu Phật, Bồ
Tát nữa. Là ý nói khi ý thức đã chuyển hóa thì có trí tuệ mở sáng soi thấu rõ lẽ
thật nơi các pháp, không hòa hợp với những tâm tham, sân, si và vọng tình ngoại
cảnh.
Cho nên nói là đi nghịch dòng thế gian, vì còn đang
trên đường đi đến Phật quả mà tập nghiệp quá nhiều, phải gian truân đối đầu với
yêu ma của nội tâm. Do những chủng tử đó quá mạnh, tuy có trí tuệ mà vẫn bị chúng
làm trở ngại lúc công phu hành đạo, giống như Tôn Hành Giả đánh với yêu tinh
không lại phải đi cầu viện Bồ Tát và Phật đến giải nạn vậy.
Vì thế khi trực diện chúng phải biết lẽ thật để uyển
chuyển hoá giải mới không bị sai khiến.
Bồ Tát Quan Âm dùng nước trong tịnh bình dập tắt lửa
yêu tinh là hình ảnh ngụ ngôn, ngụ ý nói Bồ Tát Quan Âm là hạnh từ bi, tịnh
bình là giới, nước trong tịnh bình là định. Để thấy phải là bình trong sạch mới
đựng được nước cam lồ. Còn cành dương liễu chỉ cho sự nhẫn nhục, vì dương liễu
là loại cây mềm dẻo lại khó gãy, khi gió thổi mạnh nó chỉ ngã cong, lúc gió dừng
nó lại đứng thẳng.
Cũng vậy, ngoài lòng từ bi ra còn phải có giới hạnh
trong sạch và tâm an định thì niệm sân sẽ không tác khởi, trong cuộc sống mới
không ái nhiễm dính mắc thì có thể giúp người được. Nhưng trong khi làm phải nhẫn
nại chịu đựng những khó khăn trở ngại, bởi chúng sinh hay ngang ngược khó tiếp
độ.
Vì thế khi Bồ Tát Sĩ Đạt Đa đã thành chánh giác, Ngài
dùng Phật nhãn biết tất cả chúng sinh rất cố chấp và vướng mắc các pháp, thấy rất
khó độ họ mà muốn vào Niết bàn. Nhưng may nhờ có Chư Thiên đến tán thán ca ngợi
và cúng dường lúc Ngài thành đạo, mới thỉnh cầu Ngài ở lại cõi Ta bà này hóa độ
chúng sinh.
Ngài vừa thương vừa kham nhẫn nên dùng mọi phương tiện
thuyết giảng cho chúng sinh biết rõ lẽ thật của thân tâm cùng muôn pháp, để họ
nương theo lời dạy đó mà thực hành thoát khỏi mê lầm. Cũng như đứa bé đang đau
nó dễ nóng giận, khi ai đụng vào là khóc lóc la lối, nếu bác sĩ không kiên nhẫn
định tâm và thương nó để chịu đựng những cử chỉ đó thì không thể nào khám bệnh
và điều trị cho nó được.
Nguồn tin: Sách Tây Du Ký qua cách nhìn người học Phật
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự