11.
Động Nhật Nguyệt nước phun báo điềm lành
Sau
khi đến Đài Loan, cư sỹ Lâm Giác Phi thường liên lạc với Sư. Mùa hạ năm 1947 do
sự sắp xếp của Lâm, Người cùng vị tăng Đài Loan, - pháp sư Phổ
Vượng (ở thành phố Cơ Long, sau đổi tên là Phổ Quán, trụ trì Giảng
đường Phật giáo Cơ Long, nay đã viên tịch) từ Hạ Môn đi bằng tàu
Anh đến Đài Loan.
Ban
đầu Người ở trong một ngôi nhà trống cất theo kiểu Nhật, thuộc nghĩa trang
Không Quân Tân Điếm. Năm 1948, Người khai tạc động Quảng Minh trên vách đá phía
sau đường Tân Điếm (nay là chùa Quảng Minh), năm 1950 lại cất chùa Quảng Chiếu;
năm 1951 tạc tượng Phật A-Di-Đà thật lớn, hoàn thành vào mùa đông năm ấy. Ngay
lúc gần xong chẳng hiểu vì lý do gì Sư vội rời chùa, công việc đình chỉ. Năm
1952, cư sỹ Lý Văn Khải quê Quảng Đông quyên tiền hoàn thành công trình.
Sư
rời chùa đến núi Phúc Sơn ở Thổ Thành tìm một động đá thiên nhiên, sống lại đời
sống ẩn tu như trước. Sơn động Sư ở cao hơn hai trượng, sâu độ hai trượng,
rộng vài trượng. Cửa động nhìn về hướng Đông nên nhận được cả ánh mặt trời và
ánh trăng mới mọc, do đó Sư đặt tên là động Nhật Nguyệt. Động này trước kia
không có nước, từ ngày Sư ở bỗng nước từ khe đá trong động phun ra chảy dọc
trên cỏ, Sư vội đào một cái ao nhỏ để chứa, nước trong mát ngọt miệng, uống vào
giải ngay cơn nóng khát.
Sư
vui mừng được suối linh, mùa xuân năm 1952 cất ba gian nhà gỗ trước cửa động,
bên trái làm nhà bếp, chính giữa thờ Bồ-Tát Địa Tạng. Cũng năm ấy Sư dựng một
lều tranh cho hai đệ tử Truyền Giác và Truyền Ba cùng ở, đồng thời giao cho sư
Truyền Ý làm giám viện Động Nhật Nguyệt .
Năm
1953, Sư lên đỉnh núi cất một cái lều tranh nhỏ ở. Có con trăn lớn đêm thường
bò tới chỗ Sư mà không tỏ chút gì sợ sệt, Sư quy y cho nó. Một hôm mấy người
con trai ông trưởng xóm phía dưới núi bắt gặp con trăn bèn gọi đông người cùng
nhau dùng gậy định giết nó; Sư từ trên núi nghe tiếng ồn ào
vội vàng ra bảo với họ : “Trăn đã quy y Tam Bảo rồi, đừng giết hại!” Nghe
Sư nói cả bọn giải tán bỏ đi.
Từ
khi Người dời tới ở Động Nhật Nguyệt rất ít ai biết, sau ba lần nhập đại
định mới làm chấn động nhân gian. Mùa xuân năm 1955, các tín nữ Bản Kiều
mua đất núi ở Thổ Thành cúng dường Người, núi này tục gọi Hỏa Sơn, nguyên
là một đám rừng tre.
Người
đi vào rừng theo một con đường nhỏ, chặt tre dài độ ba thước, dùng giây thép
cột lại thành tấm vạt tre, cột nó vào thân cây tre sống, cách mặt đất vài
thước, Người ngồi kiết già trên đó, giống như lối sống của người thời tiền
sử. Về sau mới mở đất cất một gian nhà lợp ngói để thờ Phật, còn lại thì
dựng lều tranh.
Năm
1956, Người trở về Tân Điếm, đến cuối năm 1958 lại trở lên Hỏa Sơn ở Thổ
Thành. Năm 1960 xây Đại Điện, từ đó mới đặt tên là Thừa Thiên Thiền Tự, đổi tên
núi thành Thanh Nguyên Sơn [ Núi suối trong ] để ghi nhớ con suối hồi
Người xuất gia “diện bích”.
Năm
1962, lại xây cất điện Tam Thánh; năm 1964 thể theo lời thỉnh cầu của tín chúng
Người đến Hoa Liên, rồi quay lại Đài Trung xây dựng Quảng Long Tự trên
núi Thanh Thuỷ. Suốt nhiều tháng Người chưa trở lại núi cũ, sư giám viện
lấy cớ đã ba lần mời mà Người không về, đem đồ vật tích lũy xưa nay trong
chùa phân phát theo thứ bậc cho huynh đệ và để mọi người tự phân tán.
Cuối
năm 1964 Người trở lại Thừa Thiên Thiền Tự tu bổ, dựng cổng chùa và làm
phòng phương trượng.
Từ
ngày Người đến Đài Loan cho đến khi định cư tại chùa Thừa Thiên trước sau 17
năm, ẩn tích không muốn cho người biết. Bao nhiêu gian nan hoạn nạn không hề
nói cho ai hay, bao kẻ xấu ác bất công Người đều nhẫn nhượng và chẳng lấy
làm thắc mắc. Từng có người đề nghị: “Những tên vô lại đó, phải trị chúng mới
được, phải dùng luật mà chế tài ”. Người chỉ trả lời: “Người tốt cũng phải độ,
kẻ xấu cũng phải độ. Chúng ta phải tự hổ thẹn đức mình chưa đủ, nên không
cảm hoá họ được, không nên lấy oán báo oán ”.
12.
Thiền tịnh song tu, hiển thị mô phạm chư Phật
Sư
tu theo hạnh đầu đà của hai pháp môn Thiền và Tịnh, lấy thân mình hiển thị
mô phạm của chư Phật. Trừ lúc trời mưa ra, hằng đêm Sư đều ngồi ngoài
trời. Suốt mấy mươi năm Sư vẫn hành trì như thế. Có điều rất lạ là sáng
sớm cây cối núi rừng đều ướt đẫm sương, chỉ có chỗ Sư ngồi đường
kính ước vài thước thì hoàn toàn khô ráo.
Do
lòng từ bi thường cứu giúp người và công phu thiền định sâu dày của Sư mà
càng ngày số người tìm đến thăm viếng Sư càng đông, có người phát tâm quy
y cầu xin học đạo, có người vì hiếu kỳ ham vui, cũng có kẻ tự cho
mình cao siêu đến thử sức công phu thiền định; đủ hạng người với tính
cách khác nhau như thế, mà Sư tuy là một cụ già không biết
chữ nhưng đối đáp rất dễ dàng, tự nhiên; quả thật là Phật
pháp không thể nghĩ bàn. Xin nêu vài ví dụ cống hiến quý vị độc giả.
(1)
Một hôm có một giáo sư tự cho mình công phu thiền định rất cao, sáng sớm
đường đột bước vào thiền đường của Người. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta tự
động ngồi xuống; Sư cũng yên lặng không nói lời nào. Qua một lúc khá lâu, ông
giáo sư mở lời trước :
-
Thưa Hoà thượng ! Ngài xem thử tôi đạt tới thiền thứ mấy ?
Hoà
thượng nói :
- Tôi
không thấy .
-
Nghe nói công phu thiền định của Ngài rất cao, tôi đã đến đệ tứ thiền sao
ngài không thấy ?
Hoà
thượng trả lời :
- Tôi
chỉ biết ngày ăn ba bữa, chẳng làm việc gì .
Tiếp
đó Người đưa tay lấy tờ giấy vệ sinh, nhép miệng mấy cái, quay đầu lại hỏi ông
ta :
-
Giấy vệ sinh đang nói với tôi, ông có nghe được không ?
Ông
giáo sư như gặp phải “Kim Cang hai trượng chẳng với tới đầu,” lặng
lẽ rút lui .
(2)
Có một vị Pháp sư đến thăm, nói với Người :
-
Khi ở nước ngoài mỗi lần có động đất hay gió bão, tôi dùng pháp sau đó
động đất và gió bão đều biến lặng .
Người
đáp :
- Bần
đạo thì chẳng làm gì cả.
Lần
thứ hai đến, vị Pháp sư lại nói :
- Hoà thượng ạ, hiện nay tôi không làm gì hết .
Người
nói :
- Bần
đạo mỗi ngày ăn cơm, ngủ nghỉ, đi tản bộ .
Công
phu thiền định tự nhiên như thế, không có cái tôi đang làm gì, không chấp có
cũng không chấp không. Nếu có người tự bảo tôi có” công phu gì,
Người dùng ‘không’ để đáp lại, còn người nào bảo ‘không’ thì Người lấy ‘có’ mà
ứng đối .
Vị
Pháp sư ấy sắp ra về, nóivới Người: “Thỉnh Hoà thượng nên ra nước ngoài
hoá độ chúng sanh.”
Người
gật đầu và nói:
- Ngài
đến đó thì tôi đến !
Pháp
sư nghĩ là Hoà thượng sẽ hiển thần thông, bèn hành trang trở lại xứ người.
Song chờ mà chẳng thấy Hoà thượng tới, Pháp sư thấy sốt ruột. Lần
sau trở lại Đài Loan thăm, Pháp sư hỏi :
-
Trước đây Hoà thượng chẳng bảo rằng tôi đến thì Ngài đến sao ?
Lâu
quá chẳng thấy Ngài đến ?
Người
cười đáp :
- Ngài
tới đây bần đạo tiếp Ngài ra sao, đã nói những gì, hẳn là Ngài đã hiểu rất
rõ ràng? Khi Ngài trở về, đem những gì bần đạo nói với Ngài nói cho họ nghe, đó
chẳng phải là Ngài đến thì tôi đến hay sao?
Pháp
sư khách hốt nhiên hiểu ra, im lặng chẳng nói lời gì .
(3)
Một hôm, có vị sư chuyên tu Phạm hạnh đến thăm Hoà thượng, nói với Người: “Tôi
tu tam-muội được mấy mươi năm, nay đến Đài Loan tìm chỗ tu hành,
xin Hoà thượng chỉ dạy cho.”
Người
trả lời :
- Ngài
tu tam-muội đã mấy mươi năm, xin chỉ dạy cho tôi, tôi chưa tu tam-muội
gì bao giờ, làm sao nói với Ngài được.
Nhà
sư lại hỏi: “Tôi định đóng cửa ẩn tu, đại khái cần miếng đất chừng vài mươi
bình [ đơn vị diện tích –Nd. ] bên ngoài có vườn hoa nho nhỏ, Hoà thựơng thấy
thế nào?”
Người
đáp:
- Chúng
ta đóng cửa, mục đích là đóng tâm hay là đóng thân? Nếu đóng tâm thì cái
thân tứ đại giả hợp này của ta cũng đủ lớn rồi, còn như thân muốn hưởng
thụ thì ngũ đại cũng không đủ. Đóng là đóng lục căn, tu tâm đâu phải là vào địa
ngục .
Khi
Người đối đáp với ai, trả lời ngay thẳng, không cần suy nghĩ, không cần lấy
lòng, cũng chẳng cần giữ sỉ diện, hoàn toàn “ trực tâm đạo tràng ”.
(Kính
mời quý bạn đọc đón đọc kỳ 7: Lên núi thỉnh giáo
Hồi
ký về HT Quảng Khâm củaTông Ngang
Dịch
giả: Phạm Phú Thành
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự