3.
Một cuộc sống nghèo khổ; một cuộc lữ hành gian nan
Hoà thượng Quảng Khâm sanh ngày 26 tháng 10 âm lịch, năm Quang Tự thứ 18
(1892), đời nhà Thanh. Người họ Ngô, quê huyện Huệ An, phủ Chương Châu, tỉnh
Phúc kiến. Gia đình rất nghèo, lúc Người lên 3-4 tuổi, ông anh cả cưới vợ
mà không có tiền, Người bị đem bán cho gia đình họ Lý ở Tuyền Châu, huyện
Tấn Giang.
Nhà
họ Lý làm nghề nông, trồng cây ăn trái trên sườn núi tạm sống qua ngày. Cha mẹ
nuôi không có con nối dõi nên xem Người như con ruột. Lúc nhỏ Người rất yếu
đuối và nhiều bệnh tật. Cha mẹ nuôi rất lo lắng, để cầu an cho con, họ
bèn theo tập tục dân gian đem Người đến ngôi chùa Quan Âm gần đó khấn
dâng cho Bồ Tát Quan Âm làm con nuôi. Việc làm này chính là nhân duyên trọng
yếu của Người đối với Bồ Tát .
Người vốn có tuệ căn tiền kiếp, do vì mẹ nuôi ăn chay nên năm lên bảy cậu bé
cũng tự nguyện nhất định ăn chay theo mẹ. Đến năm 1900, cậu lên chín tuổi, bất
hạnh mẹ nuôi qua đời, hai năm sau cha nuôi cũng tạ thế. Trong một thời
gian rất ngắn vô thường đã cướp đi những người thân yêu nhất. Cậu bé tứ cố vô
thân, không còn nơi nương tựa, thể lực lại yếu đuối, côi cút giữa cõi đời
không biết đi về đâu! Đợi khi an táng cha mẹ cậu xong, những người
bà con sắp xếp cho cậu đi Nam Dương sinh sống. "Nam Dương : chỉ chung
các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông . ND".
Ban đầu Người đi làm thuê như quét dọn, nấu cơm cho tiệm buôn để đủ sống
qua ngày. Tuổi lớn dần, thân thể và khí lực tăng trưởng, Người nhập theo thiên
hạ kết đội lên núi đốn cây mở rừng, tuy rất vất vả nhưng kiếm khá nhiều tiền và
tương đối tự do .
Một
hôm, chiếu theo tiền lệ, đến thời gian giải việc ra về; trong lúc ai nấy chuẩn
bị lên “xe đẩy” để xuống núi Người bỗng trực giác biết ngồi xe như vậy không an
toàn, liền cảnh báo mọi người không nên đi xe. Nhưng vì ai cũng nôn nóng về
sớm, cho lời nói của Người là vu vơ, không ngờ chiếc xe đẩy sau đó bị tai nạn
lật lăn xuống hố. Ai cũng cho là điều kỳ lạ. Ở trên núi tuy Người làm việc rất
cực nhọc nhưng vẫn giữ một mực ăn chay.
Sau
khi xảy ra biến cố ấy người ta nửa đùa nửa thật bảo : “Anh đã kiên trì ăn
chay như vậy, lại biết trước việc như thần sao không trở về lại
Tuyền Châu đi tu ? ” Đó chỉ là lời nói đùa, nhưng Người tỉnh mộng! Hồi
tưởng lại cha mẹ nuôi lúc sinh tiền đang tuổi tráng niên mà chết là chết, mình
đây sớm muộn gì cũng phải đi theo con đường ấy ! Sao lại phải đi con đường lẩn
quẩn? Thế là Người thu xếp hành trang trở lại cố hương, quyết chí xuất gia .
4.
Hai mươi tuổi xuất gia, quyết tâm tu khổ hạnh .
Năm
1911, Sư 20 tuổi, vào chùa Thừa Thiên phủ Tuyền Châu xin xuất gia. Thừa Thiên
Thiền Tự là một ngôi chùa của đế vương, rất cổ kính. Tương truyền
chùa này xây vào thời vua Anh Tông, niên hiệu Chánh Thống nhà Minh (1436
– 1449) cách đây trên 500 năm, đất rộng 36 hecta.
Lúc
bấy giờ có một vị Cần Vương sinh dã tâm, thấy nơi này phong thuỷ
cực tốt và đất rộng, mưu đồ chiếm lấy để dựng cơ nghiệp đế vương. Nhưng trong
điện thiếu nước, theo phép thuật trong một đêm phải đào cho được
100 cái giếng, nếu không thì nghiệp đế chẳng thành.
Cần
Vương bèn chọn ngày tốt và tuyển thợ đào giếng . . . , thấy nước vọt lên ông ta
rất mừng, không ngờ ào đến cái 99 thì gà gáy sáng, mặt trời
ló dạng; ông ta hoảng hốt toát mồ hôi lạnh, chỉ vì một cái giếng chót chưa xong
mà nghiệp đế trong giây phút trở thành bào ảnh. Cần Vương than
tiếc tự biết phước đức không đủ, bèn đem phụng hiến để làm chùa
đặt tên là Thừa Thiên Thiền Tự.
Chúng
tôi dường như có duyên nên nới đến chùa Thừa Thiên tham quan. Thấy bảng tên
chùa chung quanh chạm hoa văn hình rồng, trên có hai chữ “Sắc Tứ ”, chính
giữa bốn chữ lớn “ Thừa Thiên Thiền Tự ” đứng xa cũng có thể đọc được.
Không thể nào qua tấm biển trên cửa chùa mà biết được truyền thuyết nói trên là
thật hay giả; dù sao nhờ sự tích ấy mới rõ chùa có nguồn gốc lâu đời:
truyền thuyết thì đượm màu sắc thần bí và trong chùa thì còn lại rất nhiều di
tích cổ.
Hai
bên con đường lát đá cổ kính có hai tháp cao sừng sững, một trong hai cái là “
Tháp Phi Lai ” mang tính truyền kỳ. Hai tháp quy mô cân xứng đối diện nhau; tuy
bề ngoài giống nhau nhưng Tháp Phi lai quanh năm sạch sẽ một hạt bụi cũng không
bám, còn tháp kia đầy dẫy những phân chim, bụi đắp như trát phấn, thấy mà
chẳng nỡ nhìn. Khách hành hương đến đây ai cũng dừng lại suy nghĩ, không
hiểu lý do vì sao như vậy.
Chùa
này có tám cổ tích, như “Nguyệt đài đảo ảnh ” (Bóng trăng phản chiếu), “Thạch
quy thực mễ ” (Rùa đá ăn gạo), “ Sư tử thổ yên ” (Sư tử phun khói
), “ Thạch mai hoa hương ” (Hoa mai đá tỏa hương thơm), “ Nhất trần
bất nhiễm ” (Một hạt bụi không dính), “ Long Vương Tỉnh ” (Giếng Long Vương), “
Anh ca thổ vụ ” (Anh Vũ phun sương). Thiên hạ ai cũng thích nói đến những kỳ
quan sống động ấy. Tiếng đồn càng lan xa càng làm tăng thêm tính chất thần kỳ .
Ngày
nay người ta chỉ còn ngậm ngùi hoài cổ, không biết căn cứ vào đâu để khảo
chứng. Duy những cái không bị huyền thoại làm biến dạng đó là kiến trúc hùng
vĩ, trong chùa có Thiền đường, Niệm Phật đường, Pháp đường, Tổ đường, Khách
đường hoành tráng, Đại Điện có thể chứa ngàn người, tăng chúng thường trú có
hơn 600 người, quả là một “ Tòng lâm cổ sát ” oai nghi .
Khi
chưa vào tu trong chùa Thừa Thiên, Sư đã tự nhủ lòng: mình phước đức còn kém,
nếu xuất gia tu chưa đắc đạo mà nhận của thập phương cúng dường một cách rộng
rãi, e rằng không báo đáp nổi khiến cho đạo nghiệp khó thành.
Do
vậy, trước khi vào chùa Sư quyết chí rèn luyện giảm ăn bớt ngủ, mỗi ngày chỉ ăn
một bữa, ngủ dưới gốc cây chứ không ngủ nghỉ trên giường chiếu, giữ được như
thế rồi mới xuất gia làm tăng. Sau khi xuất gia, Người quyết tâm khổ
hạnh, ăn những món mà Người khác không thèm ăn, làm những việc mà người
khác không muốn làm.
Chùa
Thừa Thiên lấy tám chữ “ Phật Hỷ Chuyển Thụy Quảng Truyền Đạo Pháp
” (佛喜转瑞广传道法) để truyền thừa Pháp mạch. Lúc bấy giờ vị trụ trì chùa Thừa Thiên
là Ngài Chuyển Trần , còn Sư Quảng Khâm là đệ tử của Pháp sư Thuỵ Phương
– tu khổ hạnh. Từ chỗ đó mà biết được sở nguyện của Người.
Pháp
sư Thụy Phương tu khổ hạnh quá khắc khổ nên đã viên tịch lúc còn trẻ
tuổi. Sư Quảng Khâm tuy là đệ tử của Pháp sư Thụy Phương
nhưng được sự dạy dỗ của Hoà thượng Chuyển Trần. Hoà thượng biết căn cơ
Người thâm hậu, về sau ắt sẽ là long tượng của pháp môn, do vậy mà
Hoà thượng khẩn thiết sách tấn và thường xuyên trực tiếp chỉ dạy cho Người .
Một
hôm đại chúng đi lao động ngoài triền núi, đến gần trưa sắp trở về chùa
thì nghe tiếng bản gõ báo ngọ trai. Vì chùa đông người thực phẩm cung ứng khó
khăn nên thường ngày phải hạn chế trong khẩu phần ăn uống. Bữa ăn lỏng bỏng
không đủ chất dinh dưỡng, chúng lại phải ra sức làm việc trên đồi núi, ai
nấy đều đói đến đầu óc choáng váng, cho nên khi nghe báo giờ ăn mọi người chẳng
màng thu dọn dụng cụ đua nhau về trai đường.
Lúc
đó Người cũng muốn mau theo chúng tăng về trai đường nhưng bị Hoà thượng Chuyển
Trần gọi lại bảo phải gom hết dụng cụ trả lại chỗ cũ. Lúc đó Người đã rất đói
bụng, tay chân bải hoải, hai mắt lờ đờ mất thần. Tuy vẫn thu dọn đồ
đạc nhưng trong lòng chán ngán, nghĩ bụng: làm việc vất vả như thế này,
ăn cơm thì toàn rau, lại phải chịu cảnh như vầy, sao mà khổ quá ! Tâm sân
liền khởi, “ bất kể ba bảy hai mốt ”, “ Hòa thượng cũng chẳng thèm làm ”, thẩn
thờ bước đi ra ngoài núi…
Đi
chẳng bao xa, lòng thổn thức : “Chẳng phải vì ta đã quyết chí tu khổ hạnh ngõ
hầu thoát khỏi luân hồi sinh tử nên mới xuất gia hay sao ? Nay chỉ vì một
chút khổ nhọc cỏn con mà nao núng chí khí, há chẳng phải là làm trái với ý
nguyện ban đầu ? ”
Ngay
sau tiếng nói tự đáy lòng ấy Người bỗng thấy ý chí vươn cao, lập tức sự mệt
mỏi, sự đói khát, sự bất mãn đều tan biến. Người liền đến trước Hoà thượng
Chuyển Trần xin nhận chỉ thị. Hoà thượng cho phép Người theo chúng vào trai
đường và dặn dò một câu : “ Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm, về
sau con sẽ rõ.” Từ đó về sau Người càng khắc khổ tự rèn, chẳng dám
khởi niệm thoái chuyển.
Người
từ nhỏ chưa từng được giáo dục, ngay cả chữ viết to cũng chỉ đọc được năm
ba chữ; không biết giảng kinh cũng chẳng rành gõ mõ tụng niệm, thường bị người
khác xem thường, tự mình cũng cảm thấy buồn bực. Nghĩ trong lòng:
tuy đã nhịn ăn, nhịn ngủ, nhịn mặc nhưng không có cách gì để trên thì đền
ơn Tam bảo, dưới thì hoá độ chúng sanh! Thế là Người quyết tâm gieo phước để
báo ân.
Hàng
ngày đợi đại chúng ăn xong Người lượm những hạt cơm rơi rớt trên bàn, dưới đất,
không rửa hay nấu lại, cứ để vậy mà ăn. Nếu có các bậc Đại đức Cao tăng
từ xa đến, Người hầu trà, dâng nước rửa mặt, khăn tay, giày dép, đổ nước
bẩn đã giặt rửa . . . Tất cả các việc nặng nhọc như khuân vác, bửa củi,
nấu cơm, lau chùi, quét dọn… Người đều cật lực đảm đương mà không một tiếng
than phiền .
(Kính mời quý bạn đọc đón đọc kỳ 3:Thường ngồi không nằm )
Hồi ký về HT Quảng Khâm của Tông Ngang
Dịch giả: Phạm Phú Thành
Nguồn tin: theo hoalinhthoai.com
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự