Chuyện chưa ai biết về Hòa thượng “Trái cây” - Kỳ 2: “Một cuộc lữ hành gian nan”

Thứ năm - 25/06/2009 21:34
Ngay sau tiếng nói tự đáy lòng ấy Người bỗng thấy ý chí vươn cao, lập tức sự mệt mỏi, sự đói khát, sự bất mãn đều tan biến. Người liền đến trước Hòa thượng Chuyển Trần xin nhận chỉ thị. Hòa thượng cho phép Người theo chúng vào trai đường và dặn dò một câu : “ Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm, về sau con sẽ rõ.”

3. Một cuộc sống nghèo khổ; một cuộc lữ hành gian nan
  
Hoà thượng Quảng Khâm sanh ngày 26 tháng 10 âm lịch, năm Quang Tự  thứ 18 (1892), đời nhà Thanh. Người họ Ngô, quê huyện Huệ An, phủ Chương Châu, tỉnh Phúc kiến. Gia đình rất nghèo, lúc Người lên 3-4 tuổi, ông anh cả cưới vợ  mà không có tiền, Người bị đem bán  cho gia đình họ Lý ở Tuyền Châu, huyện Tấn Giang.

 

Nhà họ Lý làm nghề nông, trồng cây ăn trái trên sườn núi tạm sống qua ngày. Cha mẹ nuôi không có con nối dõi nên xem Người như con ruột. Lúc nhỏ Người rất yếu đuối và nhiều bệnh tật. Cha mẹ nuôi rất lo lắng, để cầu an cho con, họ bèn  theo tập tục dân gian đem Người đến ngôi chùa Quan Âm gần đó khấn dâng cho Bồ Tát Quan Âm làm con nuôi. Việc làm này chính là nhân duyên trọng yếu của Người đối với Bồ Tát .
   
Người vốn có tuệ căn tiền kiếp, do vì mẹ nuôi ăn chay nên năm lên bảy cậu bé cũng tự nguyện nhất định ăn chay theo mẹ. Đến năm 1900, cậu lên chín tuổi, bất hạnh mẹ  nuôi qua đời, hai năm sau cha nuôi cũng tạ thế. Trong một thời gian rất ngắn vô thường đã cướp đi những người thân yêu nhất. Cậu bé tứ cố vô thân, không  còn nơi nương tựa, thể lực lại yếu đuối, côi cút giữa cõi đời không biết đi về đâu! Đợi khi an táng cha mẹ  cậu xong, những người bà  con sắp xếp cho cậu đi Nam Dương sinh sống. "Nam Dương : chỉ chung các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến  và Quảng Đông . ND".
 
Ban đầu Người đi làm thuê như quét dọn, nấu cơm cho tiệm buôn để đủ  sống qua ngày. Tuổi lớn dần, thân thể và khí lực tăng trưởng, Người nhập theo thiên hạ kết đội lên núi đốn cây mở rừng, tuy rất vất vả nhưng kiếm khá nhiều tiền và tương đối tự do .

 

Một hôm, chiếu theo tiền lệ, đến thời gian giải việc ra về; trong lúc ai nấy chuẩn bị lên “xe đẩy” để xuống núi Người bỗng trực giác biết ngồi xe như vậy không an toàn, liền cảnh báo mọi người không nên đi xe. Nhưng vì ai cũng nôn nóng về sớm, cho lời nói của Người là vu vơ, không ngờ chiếc xe đẩy sau đó bị tai nạn lật lăn xuống hố. Ai cũng cho là điều kỳ lạ. Ở trên núi tuy Người làm việc rất cực nhọc nhưng vẫn giữ một mực ăn chay.

 

Sau khi xảy ra biến cố  ấy người ta nửa đùa nửa thật bảo : “Anh đã kiên trì ăn chay  như vậy, lại biết trước việc như  thần sao không trở về lại Tuyền Châu đi tu ? ” Đó chỉ là lời nói đùa, nhưng Người tỉnh mộng! Hồi tưởng lại cha mẹ nuôi lúc sinh tiền đang tuổi tráng niên mà chết là chết, mình đây sớm muộn gì cũng phải đi theo con đường ấy ! Sao lại phải đi con đường lẩn quẩn? Thế là Người thu xếp hành trang trở lại cố hương, quyết chí xuất gia .

 

4. Hai mươi tuổi xuất gia, quyết tâm tu khổ hạnh .

 

Năm 1911, Sư 20 tuổi, vào chùa Thừa Thiên phủ Tuyền Châu xin xuất gia. Thừa Thiên Thiền Tự  là một ngôi chùa của đế vương, rất cổ kính. Tương truyền  chùa này xây vào thời  vua Anh Tông, niên hiệu Chánh Thống nhà Minh (1436 – 1449) cách đây trên 500 năm, đất rộng 36 hecta.

 

Lúc bấy giờ  có một vị Cần Vương sinh dã tâm, thấy nơi  này phong thuỷ cực tốt và đất rộng, mưu đồ chiếm lấy để dựng cơ nghiệp đế vương. Nhưng trong điện  thiếu nước, theo phép  thuật trong một đêm phải đào cho được 100 cái giếng, nếu không thì nghiệp đế  chẳng thành.

 

Cần Vương bèn chọn ngày tốt và tuyển thợ đào giếng . . . , thấy nước vọt lên ông ta rất mừng, không ngờ  ào đến  cái  99 thì gà gáy sáng, mặt trời ló dạng; ông ta hoảng hốt toát mồ hôi lạnh, chỉ vì một cái giếng chót chưa xong mà nghiệp đế trong giây phút trở thành bào ảnh. Cần Vương than tiếc tự biết phước đức không đủ, bèn đem phụng hiến để làm chùa đặt tên là Thừa Thiên Thiền Tự.

 

Chúng tôi dường như có duyên nên nới đến chùa Thừa Thiên tham quan. Thấy bảng tên chùa chung quanh chạm hoa văn hình rồng, trên có hai chữ  “Sắc Tứ ”, chính giữa bốn chữ  lớn “ Thừa Thiên Thiền Tự ” đứng xa cũng có thể đọc được. Không thể nào qua tấm biển trên cửa chùa mà biết được truyền thuyết nói trên là thật hay giả; dù sao nhờ sự tích ấy mới rõ chùa có nguồn gốc lâu đời: truyền thuyết thì đượm màu sắc thần bí và trong chùa thì còn lại rất nhiều di tích cổ.

 

Hai bên con đường lát đá cổ kính có hai tháp cao sừng sững, một trong hai cái là “ Tháp Phi Lai ” mang tính truyền kỳ. Hai tháp quy mô cân xứng đối diện nhau; tuy bề ngoài giống nhau nhưng Tháp Phi lai quanh năm sạch sẽ một hạt bụi cũng không bám, còn tháp kia đầy dẫy những phân chim, bụi đắp như  trát phấn, thấy mà chẳng nỡ nhìn. Khách hành hương đến đây ai cũng dừng lại suy nghĩ, không hiểu lý do vì sao như  vậy.

 

Chùa này có tám cổ tích, như “Nguyệt đài đảo ảnh ” (Bóng trăng phản chiếu), “Thạch quy thực mễ ” (Rùa đá ăn gạo),  “ Sư  tử thổ yên ” (Sư tử  phun khói ),  “ Thạch  mai hoa hương ” (Hoa mai đá tỏa hương thơm), “ Nhất trần bất nhiễm ” (Một hạt bụi không dính), “ Long Vương Tỉnh ” (Giếng Long Vương), “ Anh ca thổ vụ ” (Anh Vũ phun sương). Thiên hạ ai cũng thích nói đến những kỳ quan sống động ấy. Tiếng đồn càng lan xa càng làm tăng thêm tính chất thần kỳ .

 

Ngày nay người ta chỉ còn ngậm ngùi hoài cổ, không biết căn cứ vào đâu để khảo chứng. Duy những cái không bị huyền thoại làm biến dạng đó là kiến trúc hùng vĩ, trong chùa có Thiền đường, Niệm Phật đường, Pháp đường, Tổ đường, Khách đường hoành tráng, Đại Điện có thể chứa ngàn người, tăng chúng thường trú có hơn 600 người, quả là một “ Tòng lâm cổ sát ”  oai nghi .

 

Khi chưa vào tu trong chùa Thừa Thiên, Sư đã tự nhủ lòng: mình phước đức còn kém, nếu xuất gia tu chưa đắc đạo mà nhận của thập phương cúng dường một cách rộng rãi, e rằng không báo đáp nổi khiến cho đạo nghiệp khó thành.

 

Do vậy, trước khi vào chùa Sư quyết chí rèn luyện giảm ăn bớt ngủ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây chứ không ngủ nghỉ trên giường chiếu, giữ được như thế rồi mới xuất gia làm tăng. Sau khi xuất gia, Người quyết tâm khổ  hạnh, ăn  những món mà Người khác không thèm ăn, làm những việc mà người khác không muốn làm.

 

Chùa Thừa Thiên lấy tám chữ  “ Phật Hỷ Chuyển Thụy Quảng Truyền Đạo Pháp ”  (佛喜转瑞广传道法) để  truyền thừa Pháp mạch. Lúc bấy giờ vị trụ trì chùa Thừa Thiên là Ngài Chuyển Trần , còn Sư Quảng Khâm là đệ tử  của Pháp sư Thuỵ Phương – tu khổ hạnh. Từ  chỗ  đó mà biết được sở  nguyện của Người.

 

Pháp sư  Thụy Phương tu khổ hạnh quá khắc khổ nên đã viên tịch lúc còn trẻ tuổi. Sư  Quảng Khâm tuy là đệ tử  của Pháp sư  Thụy Phương nhưng được sự dạy dỗ của Hoà thượng  Chuyển Trần. Hoà thượng biết căn cơ Người thâm hậu, về sau  ắt sẽ là long tượng của pháp môn, do  vậy mà Hoà thượng khẩn thiết sách tấn và thường xuyên trực tiếp chỉ dạy cho Người .

 

Một hôm đại chúng đi lao động ngoài triền núi, đến gần trưa sắp trở  về chùa thì nghe tiếng bản gõ báo ngọ trai. Vì chùa đông người thực phẩm cung ứng khó khăn nên thường ngày phải hạn chế trong khẩu phần ăn uống. Bữa ăn lỏng bỏng không đủ  chất dinh dưỡng, chúng lại phải ra sức làm việc trên đồi núi, ai nấy đều đói đến đầu óc choáng váng, cho nên khi nghe báo giờ ăn mọi người chẳng màng thu dọn dụng cụ đua nhau về trai đường.

 

Lúc đó Người cũng muốn mau theo chúng tăng về trai đường nhưng bị Hoà thượng Chuyển Trần gọi lại bảo phải gom hết dụng cụ trả lại chỗ cũ. Lúc đó Người đã rất đói bụng, tay chân bải hoải, hai mắt lờ đờ mất thần. Tuy vẫn thu dọn đồ đạc nhưng trong lòng chán ngán, nghĩ bụng: làm việc vất vả như  thế này, ăn cơm thì toàn rau, lại phải chịu cảnh như  vầy, sao mà khổ quá ! Tâm sân liền khởi, “ bất kể ba bảy hai mốt ”, “ Hòa thượng cũng chẳng thèm làm ”, thẩn thờ bước đi ra ngoài núi…

 

Đi chẳng bao xa, lòng thổn thức : “Chẳng phải vì ta đã quyết chí tu khổ hạnh ngõ hầu thoát khỏi  luân hồi sinh tử nên mới xuất gia hay sao ? Nay chỉ vì một chút khổ nhọc cỏn con mà nao núng chí khí, há chẳng phải là làm trái với ý nguyện ban đầu ? ”  

 

Ngay sau tiếng nói tự đáy lòng ấy Người bỗng thấy ý chí vươn cao, lập tức sự mệt mỏi, sự đói khát, sự bất mãn đều tan biến. Người liền đến trước Hoà thượng Chuyển Trần xin nhận chỉ thị. Hoà thượng cho phép Người theo chúng vào trai đường và dặn dò một câu : “ Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm, về sau con sẽ rõ.”  Từ  đó về sau Người càng khắc khổ tự rèn, chẳng dám khởi niệm thoái chuyển.

 

Người từ nhỏ chưa từng được giáo dục, ngay cả chữ viết to cũng chỉ đọc được năm ba chữ; không biết giảng kinh cũng chẳng rành gõ mõ tụng niệm, thường bị người khác xem thường, tự mình cũng cảm thấy buồn bực. Nghĩ  trong lòng: tuy đã nhịn ăn, nhịn ngủ, nhịn  mặc nhưng không có cách gì để trên thì đền ơn Tam bảo, dưới thì hoá độ chúng sanh! Thế là Người quyết tâm gieo phước để báo ân.

 

Hàng ngày đợi đại chúng ăn xong Người lượm những hạt cơm rơi rớt trên bàn, dưới đất, không rửa hay nấu lại, cứ để vậy mà ăn. Nếu có các bậc Đại đức Cao tăng từ  xa đến, Người hầu trà, dâng nước rửa mặt, khăn tay, giày dép, đổ nước bẩn đã giặt rửa . . . Tất cả các việc nặng nhọc như  khuân vác, bửa củi, nấu cơm, lau chùi, quét dọn… Người đều cật lực đảm đương mà không một tiếng than phiền .

 

(Kính mời quý bạn đọc đón đọc kỳ 3:Thường ngồi không nằm )


Hồi ký về HT Quảng Khâm của Tông Ngang

Dịch giả: Phạm Phú Thành

Nguồn tin: theo hoalinhthoai.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây