Nghe
lời tấu trên, Tôn Hạo chùn tay lại, sai một người “có tài ăn nói lưu loát, bắt bẻ
ngọn ngành” là Trương Dục đến chùa Kiến Sơ gặp Khương Tăng Hội để chất vấn về
ngọc xá lợi và Phật pháp. Hai người đàm đạo suốt ngày, Hội giải thích và đối
đáp trôi chảy, khiến Dục tâm phục, hỏi thêm: “Sát cổng chùa có ngôi miếu thờ
dâm từ trái với Phật pháp sao chưa đập phá?”. Hội đáp:
-
Khi sấm sét vang dậy, sức nổ đánh sập cả ngọn núi lớn, nhưng người điếc không
nghe tiếng sấm ấy, không phải vì thế mà tiếng sét bị nhỏ đi. Thưa ngài, cũng
vậy, giáo lý nhà Phật rất sâu mầu, nếu có kẻ tăm tối không rõ chánh pháp thì
chánh pháp vẫn không vì thế bị lu mờ theo. Nay dâm từ ở cạnh chùa, chùa không
vì thế mà mất chân pháp...
Nhớ
lời đáp ấy, Trương Dục đem về tâu với Tôn Hạo. Hạo ngẫm nghĩ nghĩa thâm diệu,
mới quyết định không đập phá chùa tháp nữa. Khi Tôn Hạo ngã bệnh (như viết ở kỳ
trước), cho người cầu đảo khắp miếu đường không lành, phải đem tượng Phật đặt
lên điện lễ bái, sám hối ngày đêm và lấy nước thơm rửa tượng mấy chục lần, cơn
đau mới giảm dần. Khương Tăng Hội vào cung thuyết pháp cho Hạo, đến đoạn nói người
tu hành đi, đứng, nằm, ngồi (tứ oai nghi) đều nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh
để cứu vớt, Hạo cảm động thấu tim, mới xin quy y tam bảo (là ba ngôi cao quý:
Phật, pháp và tăng). Quy y được 10 ngày, bệnh lành, Tôn Hạo xuống lệnh tu sửa
chùa Kiến Sơ rỡ ràng trang nghiêm hơn nữa và bảo các tôn thất quần thần phải
phụng thờ chư Phật, ai nấy đều tuân theo.
Sống
và truyền pháp như thế trên đất Hoa hơn 30 năm, Khương Tăng Hội đã viên tịch
năm 280, để lại nhiều công trình dịch kinh, dựng chùa, xây tháp thờ xá lợi. Đến
đời Đường, ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du mang về 150 viên ngọc xá lợi Phật
và rất nhiều kinh tiếng Phạn để phiên dịch sang tiếng Hán, người ta đã vẽ trên
tường của Viện phiên kinh ở chùa Đại Từ Ân các dịch giả kinh Phật trước đó,
trong đó có tượng Khương Tăng Hội.
Ngài
là một thiền sư Việt Nam, song tác giả người Trung Quốc (như Tỉnh Mại) khi viết
về ngài đã tước bỏ nguồn gốc Việt Nam (người Giao Chỉ) của ngài, để thay vào đó
“quốc tịch” Trung Hoa, cụ thể viết: “Khương Tăng Hội là trưởng tử của đại thừa
tướng nước Khương Cư”. Sự thật không phải như thế và nguồn gốc Việt Nam của
ngài Khương Tăng Hội đã được các thiền sư cũng như nhiều nhà nghiên cứu Phật
học nước ta truy nguyên, như thiền sư Thích Nhất Hạnh (Nguyễn Lang) khẳng định:
“Tăng Hội chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ. Cha và mẹ ông mất năm ông lên mười
tuổi (...) lớn lên ông đi xuất gia và tu học rất tinh tiến”.
Còn
học giả Lê Mạnh Thát cũng nêu rõ: “Tổ tiên Khương Tăng Hội gốc người Khương Cư
(Sogdiane), nhưng đã mấy đời đến ở Ấn Độ, tới thời cha Hội vì buôn bán lại di
cư sang nước ta và sinh sống tại Giao Chỉ (...). Qua các tác phẩm (của Khương
Tăng Hội) để lại có nhiều dấu vết chứng tỏ Hội đã chịu ảnh hưởng truyền thống
Lạc Việt một cách sâu đậm.
Một
là, về mặt ngôn ngữ, hiện nay Lục độ tập kinh (một dịch bản của Khương Tăng
Hội) chứa đựng nhiều cấu trúc mang ngữ pháp tiếng Việt cổ, mà ngoài lý do Hội
phải dùng một nguyên bản tiếng Việt, còn có yếu tố thói quen ngôn ngữ hình
thành từ chính mẹ đẻ (người Việt) của mình mới mạnh mẽ như thế để có thể lưu
lại dấu ấn trong tác phẩm. Hai là, về nội dung và tư tưởng, Khương Tăng Hội đã
chứng tỏ một lòng yêu mến tha thiết truyền thống văn hóa người Việt đến nỗi
truyền thuyết Trăm trứng - một truyền thuyết đặc biệt Việt Nam - nói về nguồn
gốc của dân tộc Việt, vẫn không bị Khương Tăng Hội cải biên”.
Sử
sách ở Trung Quốc và Việt
Khoảng
46 năm sau ngày Khương Tăng Hội qua đời, tháp thờ xá lợi do ngài dựng nên bị Tô
Tuấn đốt cháy, sau được Tư không Hà Sung dựng lại và tướng Triệu Dụ đứng dưới
tháp thách thức: “Ta nghe từ lâu tháp này phóng ra ánh sáng năm màu rực rỡ, ta
cho đó là lời thêm thắt hư ngụy không có thật, ta không tin, nếu ngay bây giờ
ta thấy ánh sáng ấy mới tin”. Chưa dứt lời, tháp xá lợi đã phóng quang bừng
sáng cả chùa.
Dụ
lóa mắt, rợn tóc gáy, lập tức sai dựng thêm một tháp nhỏ và vẽ hình Khương Tăng
Hội lưu truyền. Hơn 700 năm sau, ở Việt
Nguồn tin: theo thanhnien
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự