7. Mãnh hổ
quy y, khỉ vượn cúng dường
Thấy mãnh hổ chạy rồi Sư lấy lại bình tĩnh, tự
nghĩ : “Nếu ta kiếp trước có nợ mạng thì đời này ta xin trả, gây nhân thì
phải trả quả ”, lại nghĩ : “Nếu không phải vậy thì sao cái vòng nhân quả lại
triền miên không dứt ? ”
Sư chưa kịp định tĩnh con mãnh hổ đã trở lại vào
động, Sư nói: “A-Di-Đà Phật, lão tổ đừng sân giận! Oan oan tương báo không
bao giờ dứt, ngươi ở nơi đây thì ta sẽ ra ngoài, còn ngươi nhường nơi này
cho ta tu hành thì sau khi ta thành đạo sẽ độ cho ngươi quy y Phật, Pháp,
Tăng ”.
Mãnh hổ nghe lời Sư nói không biết có hiểu hay
không, nhưng nó đứng dừng tại chỗ không tiến tới nữa; Sư chỉ nhất tâm niệm
Phật, yên lặng chờ xem điều gì lạ diễn ra. Thật bất ngờ, mãnh hổ gật đầu
như tỏ dấu thần phục, hiền lành lui ra khỏi động, nó nằm phục trước cửa động
rồi đứng lên như một vệ sỹ đứng hộ pháp.
Sư thấy hiện tượng như vậy, nghĩ trong lòng: đây
hẳn là Long Thần Hộ Pháp che chở, chư Phật và Bồ Tát gia hộ, nếu không thì
khó thoát khỏi miệng cọp dữ. Từ đó lòng tin càng tăng, ý chí càng thêm kiên
định, Sư âm thầm phát nguyện : “Nếu kiếp này không ngộ đạo, nguyện
trọn đời chôn thân trong động ”.
Từ sau khi Sư hàng phục được hổ, sớm tối cùng với
hổ ở chung, không còn sợ sệt, cọp dữ cũng hiền lành như gia súc, khôn
ngoan và hiểu được chút ít tiếng người. Sau đó nó còn dắt vợ con nhà họ hổ
đến trước Sư mà đùa giỡn, trình hiến các kiểu múa vờn cho Sư xem, nhiều lần gục
gật đầu trước mặt Sư như cầu xin việc gì, Sư liền quy y cho chúng và
chỉ dạy yếu chỉ giáo pháp.
Người tuy ở cảnh tiên chốn trần gian, không chút
vướng bận sự đời, nhưng nơi đây là hoang sơn nhiều cỏ rậm, chẳng có rau dại
để ăn, gạo đem theo không còn lấy một hạt; vả lại Người nhập định ngày càng sâu,
mãi vui trong thiền định nên không thích đi xa.
Mỗi lần bụng đói cồn cào Người chỉ cúi đầu xuống
nhìn bụng, vỗ bụng hai cái an ủi nó: “Chúng ta thương lượng với nhau, xin nhẫn
nại một chút, chúng ta cùng ngồi nán thêm lần nữa, người không nên nôn nóng, đợi
ta tu xong sẽ cho người ăn ngon, mặc đẹp! ”. Cứ như vậy, Người ung dung
nhập định quên cả bản thân và sự vật, không còn biết đêm nay nhằm vào tháng nào,
năm nào ?
“ Đói quá! đói quá! ” – Người tuy vui trong cảnh
giới thiền nhưng khổ nỗi thân xác nó chẳng chịu vâng lời sai bảo. Bụng càng
đói nó càng gào to; nhất là vào lúc đêm khuya vắng lặng, tiếng nó kêu vang như
sấm, có khuyên dỗ cách gì nó cũng chẳng nghe, nó như đứa con nít đòi ăn kẹo. Phỉnh
gạt nó một hai lần thì được, nhưng nhiều lần thì hết linh nghiệm.
Nếu nó không vòi vĩnh ồn ào thì lại la to khóc lớn;
không cho ăn thì dứt khoát chẳng chịu yên. Không còn cách nào khác, Người bắt đầu
thử uống trà, uống thật đầy bụng. Thế rồi đến khi xuất định, nhìn lại thân mình
từ đầu đến chân, màu da bổng trở thành vàng sậm!
Người đổi sang uống nước lã thì thân thể phù thủng!
Bực mình bèn kiên quyết không ăn uống, không cử động, chỉ nhập sâu vào
thiền định thử xem nó ra sao. Dần dần chỉ còn một lớp da bọc xương, kế đến
hơi thở cũng cảm thấy khó khăn và cuối cùng không cử động được nữa!
Đến lúc ấy Người mới hiểu ra, như thế này
thì nguy. Người bèn vận dụng tất cả sức mạnh tinh thần chuyển động cơ thể. Sau
một hồi quán tưởng, đầu tiên hai lòng bàn tay có chút cảm giác dần cử động được,
tiếp đến hai bàn chân chuyển dần từ cảm giác đến cử động được; sau cùng các bộ
phận thân thể đều có cảm giác trở lại. Nhưng toàn thân vẫn mất hết năng lực.
Lúc đầu Người gắng gượng bò được trên mặt đất, rồi
dựa vào vách động mà lần bước, tiếp đến chầm chậm từng bước kinh hành
quanh ghế; nghỉ mệt một lúc … cuối cùng mới lê được tấm thân mệt lã ra ngoài tìm
thức ăn.
Vì thường thường dùng hết sinh lực vào tu
thiền lâu ngày không ăn, đợi đến lúc không thể chịu đựng lâu thêm nữa Người mới
ra ngoài tìm thức ăn, rồi bò mà về.
Một hôm, trong lúc đói lã, trông thấy xa xa có một
bầy khỉ đang đùa giỡn, chúng ăn những hạt trái cây có vẻ ngon lành, Người
bất giác chảy nước giãi, bụng cồn cào chịu không nổi, Người nhìn chúng … rồi nhìn
lại mình … bỗng mỉm cười nghĩ bụng: “Tính chất của ta giờ đây so với con
khỉ trên cây có khác gì, chúng ăn được tại sao ta không ăn được ?” Bèn
dang tay lượm những hạt chúng đánh rơi xuống đất lên ăn.
Bọn khỉ thấy có người gia nhập hàng ngũ,
chúng tỏ vẻ lạ lùng, con này kề đầu tiếp tai con kia kêu la chí choé. Lát sau
thấy trên tay Người chẳng còn hạt nào, chúng tranh nhau ném từ trên cây những hạt
tươi ngon xuống cho Người ăn. Ăn xong Người cảm thấy đôi mắt sáng ra, tinh thần
sảng khoái. Từ đó, bầy khỉ hộ pháp cũng có “ tình người ”, thường hái trái
cây mang đến cửa động dâng cúng Pháp sư.
Cư sỹ Khuất Ánh Quang, nhân dịp chúc mừng Đại thọ
thất tuần của Người, có tặng mấy câu hàm ý liên hệ đến sự kiện trên :
Nhân viên tống thực
Mãnh hổ quy y
Hiện giới cỗ hy
Nhân thị vong hình
Tạm dịch:
Vượn người mời ăn
Cọp dữ quy y
Nay tuổi cổ hy
Vẫn quên hình hài
Kính chúc Phật thọ vô lượng
Mặc dầu vấn đề ăn tạm ổn nhưng con người vẫn là
con người, những ngày tháng gian khổ ấy thật khó khăn nghiệt ngã. Một
hôm Người cảm giác trong dạ bồn chồn … bỗng thấy đàn chim bay lượn trên không, đậu
lên cây kêu hót như rất an nhiên tự tại. Người nghĩ: “Con
người là vật linh trong vạn vật, sao lại không sống tự nhiên như chúng.
Thế là Người trút bỏ những u uất trong lòng, quyết định bắt chước
theo chim, tùy thuận thiên nhiên, tùy duyên tự tại sống qua ngày.”
8. An củ rễ
cây vẫn sống qua ngày
Sau đó, Sư đào được dưới đất một khối “củ
rễ cây” nặng 5, 6 cân, như được của báu, trân quý nó vô cùng, mỗi lần chỉ
cắt một miếng nhai thật nhuyễn, phần còn lại đem chôn xuống đất; tạm
đánh lừa cơn đói xong liền trở lại nhập định, lần xuất định sau lại
ra đào củ ấy lên ăn một miếng, cứ đào lên ăn dần như thế, hết
5-6 cân củ rễ cây, duy trì thức ăn đó được vài năm.
Theo lời Sư kể: đào lên ăn một miếng thì phần còn
lại đem chôn, một thời gian sau chỗ cắt mọc ra củ mới, do vậy tuy củ chỉ có 5-6
cân nhưng không ngừng sanh trưởng, công cứu giúp của nó thật là to tát.
Vì ở lâu trong núi, món ăn hoang dã trở thành món
ăn tự nhiên, đoạn tuyệt lối ăn nấu nướng của nhân gian, Sư hoàn
toàn trở thành người ăn sống theo tự nhiên. Một bữa nọ, Sư đang
ngồi tham thiền trong động bỗng nghe từ núi sau vọng lại tiếng kêu la
kinh hoàng. Sư vội bước ra xem chuyện gì xảy đến, thấy mấy người tiều
phu đứng ở núi sau chỉ chỏ con hổ dưới núi mà la hét. Sư liền gọi to bảo
họ đừng sợ hãi cứ xuống núi tự nhiên không sao.
Nhưng chẳng ai dám “ hạ sơn” cũng không dám huyên
náo nữa. Mọi người vô cùng kinh ngạc nhìn Pháp sư. Sư bàng hoàng nhưng rồi mỉm
cười tự nhủ: mình không sợ chứ làm sao bảo họ không sợ ? Bèn quay về phía
hổ nói: “Các con xem đấy, vì kiếp trước các con tạo nghiệp, sân si quá nhiều nên
kiếp này mặt mày dữ dằn ai thấy cũng sợ, thôi đi đi !” Nghe Sư nói như
vậy, mấy con hổ biết ý bỏ đi.
Đám tiều phu cần ra chợ gấp, vội vàng xuống núi,
mang theo cái mắt thấy tai nghe cùng với củi rừng truyền khắp thành Tuyền Châu.
Danh hiệu “ Sư phục hổ ” không chân mà chạy khắp nơi bắt nguồn từ đó.
Kể từ ngày ấy mỗi lần tiều phu đi qua đều lưu tâm
tìm bóng dáng Sư phụ. Nếu tình cờ gặp được, họ vẫy tay gọi chào. Nhưng có
một dạo, lâu lắm họ không trông thấy bóng Người, họ bàn tán xôn xao. Một bác tiều
phu tò mò bám theo vách đá leo lên núi, đến trước cửa động thăm dò bên trong,
chỉ thấy Sư nhắm mắt ngồi yên trong tư thế rất an nhiên, bác
ta không dám gây nhiễu động, len lén rời xa.
Qua vài ngày nữa cũng chẳng thấy hình bóng Sư
xuất hiện, bác bèn một lần nữa trở lại xem sao, vẫn thấy Sư ngồi yên như
trước. Nhiều lần như thế, trong lòng sinh nghi liền chạy đến chùa Thừa Thiên bẩm
báo với Ngài Chuyển Trần. Ngài Chuyển Trần bảo cho biết đó là “nhập định”, bác tiều
phu nghe vậy thì hay vậy thôi, rồi cũng không còn lấy làm lạ nữa.
Nhưng hết ngày nọ sang ngày kia … đám tiều phu
cảm thấy không yên tâm. Tuy họ quê mùa chẳng biết gì, nhưng ai tin được rằng
người không ăn, không cử động mà ngồi lâu đến như vậy. Thế là họ vào động thử gọi
Sư, không thấy hồi đáp; sờ vào mũi cũng không thấy hơi thở. Chẳng còn nghi ngờ
gì nữa, ai cũng cho rằng Sư đã chết. Có kẻ vội đến chùa Thừa Thiên báo tin lần nữa
để tính việc an táng, phải lo liệu sớm, không thể bỏ mặc Sư trong chốn
núi rừng .
Thông báo đã lâu rồi, trên một trăm hai mươi
ngày ! Chính Hoà thượng Chuyển Trần cũng cảm thấy “không ổn” nhưng chẳng dám
vội vàng quyết đoán; một mặt sai người lên núi chuẩn bị củi lửa để hỏa táng, một
mặt cấp báo với Đại sư Hoằng Nhất thỉnh Ngài đến giám định
sống chết.
Lúc bấy giờ Đại sư đang hoằng pháp tại
Vĩnh Xuân, tỉnh Phúc Kiến; nhận được thư tín Ngài liền sai người
đến ngăn cản, nhất thiết không được hành động vội vàng, chờ Ngài đến nơi
xem xét rồi sẽ quyết định.
(Kính mời quý bạn đọc đón đọc kỳ 5: Búng tay ba
lần tránh được việc hỏa thiêu)
Hồi ký về HT Quảng Khâm của Tông Ngang
Dịch giả: Phạm Phú Thành
Nguồn tin: theo hoalinhthoai.com
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự