Dân
gian có câu: “Có thực mới vực được Đạo”. Câu nói ấy muốn nhấn mạnh một điều là
cần phải có sức khỏe, tức là phải có ăn uống no đủ (thực) sau đó mới làm được
những việc khác. “Đạo” ở đây không phải chỉ cho người tu theo đạo Phật, mà từ
“Đạo” này được áp dụng tùy theo hoàn cảnh thích hợp.
Ví dụ: khi anh là một
người công nhân, muốn làm việc tốt thì cần phải có sức khỏe, mà muốn có sức
khỏe thì phải có chế độ ăn uống thích hợp. Vậy chữ “Đạo” được áp dụng trong
trường hợp này chính là công việc mà người công nhân đó đang làm.
Trong
Lục độ Ba-la-mật, điều đầu tiên được Thế Tôn nhắc đến đó là “Bố thí”. Nói về bố
thí thì có ba hình thức: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Trong ba trường hợp
này, tài thí cũng được nhắc đến đầu tiên. Về mặt thực hành thì “Bố thí” mà
trong đó “Tài thí” là dễ làm nhất, nên Phật nói ra trước tiên.
Chủ yếu là khiến
cho chúng sinh bỏ tâm tham chấp, bước đầu xả bỏ hết những tài sản, phát khởi
lòng từ, san sẻ với chúng sinh bằng những tài sản có được từ mồ hôi, nước mắt,
từ việc làm chân chính của mình.
Tuy nhiên trong bài viết này, “Bố thí” được đề
cập như là một hình thức cho thấy rằng muốn làm việc gì, kể cả chuyện tu học
thì điều kiện cần là phải đảm bảo vấn đề ăn uống, tức là đảm bảo có một sức
khỏe tốt.
Vì khi người ta không có cơm ăn, áo mặc, thiếu trước hụt sau, mà bảo
họ đi đến chùa nghe pháp, niệm Phật, tụng kinh thì chắc là không có ai đi rồi,
hoặc có chăng là đi với tính cách miễn cưỡng, đi với “một điều kiện kèm theo!”.
Trong
đạo Phật, sức khỏe của Tăng chúng luôn được quan tâm ngay từ khi Thế Tôn còn
tại thế. Ngài khuyên Tăng chúng ăn ngày một bữa (khoảng 12 giờ trưa đến khoảng
1 giờ, sau 1 giờ thì Tăng chúng không được phép ăn) vì để đảm bảo cho chư Tăng
không mất thời gian vào việc ăn uống, tập trung lo việc tu học thoát ly sinh
tử.
Hình thức không ăn chiều (sau 1 giờ) cũng là một hình thức hợp với khoa học,
bởi lẽ buổi chiều nếu ăn nhiều quá, trong lúc tọa thiền sẽ dễ bị hôn trầm, tổn
hại sức khỏe. Và hơn nữa, trong thời đại của Ngài, môi trường sống rất trong
lành, con người và thiên nhiên sống hài hòa với nhau, không thấy cảnh những ống
khói cao chọc trời, đi ra đường không cần đeo khẩu trang, không có động cơ xe
gắn máy, xe ô tô, chính vì thế mà sức khỏe con người thời đó phần nào hơn hẳn
chúng ta bây giờ.
Ngày
nay, trong hệ phái Phật giáo Nam truyền (Lào, Campodia, Thái Lan, Myanmar, Sri
Lanka, và một số ít ở miền Tây Nam Bộ của Việt nam…) vẫn còn lưu truyền hình
thức ăn ngày một bữa (nhưng rất ít), đại đa số là được dùng hai bữa trong ngày
(bữa sáng là phụ, bữa trưa là chính, tuyệt không ăn chiều, trừ những người
bệnh).
Trong hệ phái Phật giáo Bắc truyền (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt
Nam…) thì được phép ăn ngày ba bữa (sáng, trưa, chiều, nhưng buổi trưa cũng vẫn
là bữa ăn chính). Tuy nhiên ngày nay, một vài chùa (theo hệ Phật giáo Bắc
truyền) vì công việc hoằng pháp và việc học của Tăng chúng quá nhiều nên đôi
khi cả ba bữa ăn trong ngày gần như là như nhau).
Một vài thiền viện, Tăng
chúng ở tập trung, học và tu trong nội viện, ít đi ra ngoài vì thế buổi sáng họ
dùng cháo loãng, buổi trưa là bữa cơm chính và buổi chiều thường là uống sữa
hoặc dùng bột.
Đó là vài nét sơ lược về việc ăn uống trên nguyên tắc căn bản
của các tự viện theo cả hai hệ thống Nam truyền và Bắc truyền trong Phật giáo
mà phần lớn hình thức này được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam.
Nhiều
người sẽ thắc mắc tại sao có việc khác nhau như vậy? Là vì trong thời buổi văn
minh tân tiến như hiện nay, khoa học công nghệ phát triển kèm theo những tác
động xấu gây ảnh hưởng đến môi trường khiến cho sức khỏe con người bị suy giảm
trầm trọng, và chúng Tăng cũng không ngoại lệ. Vì lẽ đó mà để bảo đảm việc tu
học được tốt nên chư Tổ mới phương tiện cho chúng Tăng dùng ba bữa hoặc là hai
bữa trong ngày.
Về
vấn đề ăn uống của đại đa số quần chúng trong thời đại ngày nay thì phải nói là
hết sức phong phú. Vì để thu hút thực khách, các nhà hàng đã trưng bày những
sản phẩm ăn uống vô cùng hấp dẫn với hàng loạt các tên gọi khác nhau, không thể
kể hết, rất nhiều món ăn nhằm phục vụ tối đa nhu cầu ẩm thực của con người.
Người
ta thường nói “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Thế nhưng con người
ngày nay theo lối sống thực dụng hưởng thụ thì họ “Sống để mà ăn chứ không phải
ăn để mà sống.”
Chính vì thế mà bao nhiêu căn bệnh quái ác phát sinh mà phần đông
cũng do cái ăn mà ra như: ung thư, tai biến, tiểu đường, nhũng não, loét bao
tử, viêm đường ruột, v.v… có thể nói bao nhiêu món ăn là tương ứng với bấy
nhiêu căn bệnh. Vậy lý do nào như thế? Theo tôi, có mấy nguyên nhân như sau:
Thứ
nhất, gia súc gia cầm hiện nay bị nhiễm nhiều chứng bệnh do môi trường chăn
nuôi không được vệ sinh tốt, hàm lượng thức ăn có quá nhiều chất hóa học so với
hàm lượng thức ăn chiết xuất từ thiên nhiên. Vì thế mà sanh ra các bệnh như: bò
điên, cúm lợn, cúm gà, lợn tai xanh, lở mồm long móng, v.v…
Tại
Pháp, phần đông người dân thường dùng trứng gà làm thức ăn chính, nhất là vào
buổi sáng vì hàm lượng chất dinh dưỡng trong trứng gà rất cao. Để tạo ra nhiều
trứng gà phục vụ cho nhu cầu ăn uống của người dân mà các nhà nghiên cứu đã nảy
ra một hình thức “ép gà đẻ trứng”.
Bằng cách là cắt ngắn mỏ của gà lại, khiến
cho chúng không thể nào khép mỏ được và rồi dùng “máy phóng thức ăn” (thức ăn
hóa học dạng viên) phóng trực tiếp vào miệng gà, dù muốn hay không gà cũng phải
nuốt thức ăn vào trong dạ dày.
Với cách này mỗi ngày một con gà có thể đẻ ra số
trứng gấp nhiều lần so với những con gà bình thường khác. Còn về giá trị dinh
dưỡng của quả trứng thì chắc là không đạt yêu cầu, vì nếu trứng gà được sản
xuất ra với quy trình kỹ thuật “kinh khủng như thế” thì chẳng khác gì phân gà
được thải ra sau khi ăn. Chưa nói đến sự đau khổ của các con gà khi bị “cắt mỏ,
ép ăn và ép đẻ trứng” như vậy.
Thứ
hai, các lò mổ giết gia súc không được bảo đảm vệ sinh và các loài vật nuôi
chưa được kiểm tra sức khỏe trước khi mổ.
Thứ
ba, cách thức chế biến thức ăn còn nhiều bất cập, chưa hợp vệ sinh, dùng quá
nhiều hóa chất phẩm màu.
Ba
điều nêu trên là đứng về góc nhìn của các chuyên gia vệ sinh an toàn thực phẩm.
Còn
điều kiện thứ tư là dưới góc nhìn có phần tâm linh một chút.
Như
chúng ta đã biết, ai ai cũng quý mạng sống của chính mình, giả sử khi chúng ta
bị giết chúng ta có sợ hãi, có tức giận, có oán thù (nếu bị giết oan) không?
Đành rằng các con vật kia vì một lẽ nào đó mà chúng phải chịu cảnh làm thức ăn
cho con người, nhưng chúng vẫn có mạng sống và biết yêu quý mạng sống của chúng.
Thử hình dung khi chúng ta muốn ăn một con gà (gà thả trong vườn), điều đầu
tiên là chúng ta ra sức đuổi bắt nó, vì đâu có con gà nào chịu đứng lại để cho
chúng ta bắt đâu, hoặc là đâu có con heo nào nằm một chỗ (trừ khi bệnh) mà nói
rằng: “tôi đây thưa chủ nhân, xin hãy đến bắt tôi làm thịt, tôi đã đủ ký rồi,
tôi đang chờ ngài đến đây” mà thay vào đó là tiếng la hét vang trời khi chúng
ta bắt nó.
Trong thời gian đó, sự sợ hãi của các con vật đã tăng lên, đến lúc
chúng ta kề dao cắt cổ, thọc huyết chúng thì sự sợ hãi đó càng tăng lên gấp
bội, kèm theo tiếng la hét, vùng vẫy thể hiện sự giận dữ. Tất cả những trạng thái
đó sẽ được ngấm vào máu, thấm vào thịt, và ngay sau khi giết chúng xong, máu của
chúng có màu bầm đen hơn là màu đỏ hồng.
Khi người tiêu dùng mua thức ăn đó
(chưa kể là con vật đó đang có bệnh), chế biến và sử dụng thì cũng đồng nghĩa
với việc chúng ta trực tiếp đưa mầm bệnh, đưa sự oán thù, tức giận vào trong cơ
thể, vào trong máu của chúng ta. Vì thế có một nghiên cứu xác nhận rằng: “Người
dùng nhiều thịt động vật sẽ dễ bị kích động, tức giận và mức độ sát hại người
khác cao hơn so với người dùng thức ăn từ rau củ quả.”
Theo
chúng tôi được biết, có một món ăn rất hấp dẫn đối với thực khách sang trọng,
đó là món “óc khỉ”. Cần phải nói thêm là, hình thức này có lẽ là được áp dụng
từ Trung Hoa dưới thời phong kiến mà đặt biệt là trong giai đoạn Từ Hy Thái hậu
lộng quyền nhiếp chính.
Họ
bắt một con khỉ, cho ngồi vào một cái lồng bằng sắt, phía dưới có một vỉ than
hồng rất nóng. Phía trên lồng sắt có một lỗ vừa đủ để đầu khỉ ngoi lên và dùng
một vòng sắt kẹp đầu khỉ lại. Bằng cách này, con khỉ sẽ ngồi trong tư thế cố
định và chịu đau đớn tột độ vì sức nóng từ vỉ than hồng.
Lúc đó họ sẽ dùng dao,
bằng kỹ thuật điêu luyện, vạt đỉnh đầu con khỉ như vạt trái dừa tươi; tiếp đến
cho chanh, muối tiêu và một ít gia vị, và thực khách chỉ việc múc ăn. Tại
sao phải dùng hình thức này?
Họ lý giải rằng: khỉ rất thông minh, nếu ăn óc của
một con khỉ đã làm sẵn thì sự thông minh sẽ không có nhiều, vì thế cần phải ăn
với hình thức này, cộng thêm sức lửa nóng sẽ làm cho máu khỉ dồn lên não, độ IQ
của khỉ hoàn toàn được gom tụ lại, khi dùng sẽ ngon hơn và dùng xong sẽ thông
minh hơn.
Về
việc ăn óc khỉ có thông minh hay không tôi không biết rõ, nhưng nếu dùng hình
thức này để giết thì quả thật là tàn nhẫn, dã man. Chưa nói đến việc ngồi nhìn
người ta hành hình một con khỉ từ lúc bắt đầu cho đến khi múc ăn thì hết ngôn
từ để bàn luận.
Sài
Gòn có một hình thức ăn lẩu lươn tươi sống, không kém phần dã man. Lươn sau khi
tẩy hết chất nhớt, để nguyên trạng không giết, được cho vào nồi lẩu đang sôi.
Người phục vụ một tay cầm phần đầu thả vào nước sôi, một tay khác cầm phần đuôi
của lươn.
Khi được thả vào, vì sức nóng, lươn quặn mình đau đớn, uốn cong theo
đường tròn của nồi lẩu, kèm theo đó là sự vỗ tay tán thưởng của thực khách mà
trong số đó không ít là trẻ em. Món
này ngon bổ ra sao thì chỉ người thưởng thức biết.
Còn phần tôi thấy đau lòng
vì tiếng vỗ tay tán thưởng. Những cảnh kinh hoàng này thật sự sẽ ảnh hưởng xấu
đến tâm lý đạo đức của các đứa trẻ khi nhiều lần chứng kiến. Như
vậy hóa ra con người “sống để ăn” chứ không phải là “ăn để sống”.
Khi ăn như
vậy thì phần “người” trong con người của họ đã chết rồi. Người đang ngồi ăn chỉ
còn lại phần “con” không hơn không kém. Và chỉ có người mất hết lòng nhân, mất
hết tình thương mới ăn như thế, cũng từ “cái ăn” đó mà bệnh khổ sẽ phát sinh.
“Bệnh
từ khẩu nhập, họa từ khẩu xuất” câu nói này chắc hẳn không bao giờ sai. Bởi lẽ
miệng là cửa ngõ lưu thông vận chuyển thức ăn từ bên ngoài vào cơ thể, nhưng
thức ăn không thanh tịnh, không trong sạch, ăn uống quá độ thì bệnh khổ là điều
khó tránh. Cũng từ miệng mà con người sống hòa thuận bên nhau, cũng từ miệng mà
con người trở mặt hại nhau, thảm họa từ miệng mà ra. Cho nên:
“Mỗi
khi thốt lời ra,
Nói sao cho ôn hòa,
Khiến người nghe cảm mến,
Ghi nhớ mãi không quên.”
Và:
“Miệng
ta là hoa sen,
Một phen đã hé nở,
Tỏa hương thơm Phật pháp,
Gieo mầm giác cho người.”
Ngày
nay, khi xã hội càng tiến bộ, con người càng chú trọng đến việc ăn uống. Tuy
nhiên, ăn uống thế nào để có sức khỏe tốt, ít bệnh tật là điều mà chúng ta cần
lưu tâm.
Như
trên đã nói, các thức ăn chúng ta ăn phải cần đảm bảo vệ sinh, ít nhất là cũng
phải được qua sự kiểm dịch. An toàn hơn hết là chúng ta nên dùng thức ăn từ
thiên nhiên. Hạn chế việc ăn thịt và các thức ăn có máu tanh.
Vì
sao? Vì trong các thức ăn thiên nhiên có đầy đủ chất dinh dưỡng, hàm lượng đạm
và vitamin rất dồi dào, đảm bảo tiêu chuẩn sức khỏe cần thiết cho chúng ta.
Trên
thế giới nói chung và các quốc gia phương Tây nói riêng đã và đang tiến hành
cuộc vận động sử dụng thức ăn thiên nhiên, họ lên án việc giết hại gia súc gia
cầm. Thậm chí họ sẵn sàng dùng cơ thể của họ để thu hút sự quan tâm của công
chúng trong việc vận động ăn chay.
Nhiều
người, nhất là các ông bố bà mẹ vẫn có quan điểm ăn chay là thiếu chất dinh
dưỡng, thiếu trí tuệ, học hành giảm sút, họ cho hình thức ăn chay như là một
hình thức khổ hạnh ép xác. Vì thế hai từ “ăn chay” trở nên phản cảm đối với họ.
Nhận
xét như họ là hoàn toàn không phù hợp. Nếu nói ăn chay là thiếu trí tuệ, thiếu
chất dinh dưỡng thì tu sỹ Phật giáo là thiếu trí tuệ, thiếu chất dinh dưỡng hết
sao? Nói như vậy thì một quốc gia có đến 70% dân số ăn chay như Ấn Độ là thiếu
trí tuệ, là suy dinh dưỡng hết sao?
Trong khi đó, các tu sĩ Phật giáo vẫn có người
học tập rất tốt, đâu thiếu gì bằng cấp, học hàm học vị cũng đâu thua gì người
khác. Tại Ấn Độ, trong nhiều thế kỷ trước hình thức ăn chay đã phổ biến rộng
khắp, nhất là dưới thời vua Asoka.
Bao nhiêu thế kỷ trôi qua, người Ấn Độ vẫn
ăn chay, họ vẫn sống và cống hiến nhiều nhân tài cho thế giới, trong đó tiêu
biểu là Thánh Mohandas K. Gandhi (02/10/1869 – 30/01/1948), người mà “Ngày nay
nhân dân Ấn Độ gọi ông bằng những tên gọi thể hiện tấm lòng tôn kính, trìu mến
như: Babuji (Cha kính yêu), Mahatma Gandhi (Linh hồn vĩ đại, siêu thánh - Great
soul)…” Mahatma Gandhi bắt đầu ăn chay khi ông lưu học tại Luân Đôn (1888-1891).
Trong thời gian đó, ông đã tham gia vào Hội những người ăn chay Luân Đôn và
viết nhiều bái báo đăng trên tạp chí Vegetarian (người ăn chay), đề cao việc ăn
chay. Từ đó, ông trung thành với hình thức ăn chay cho đến cuối đời.
Qua
những đoạn văn trên, chúng ta thấy lập luận cho rằng ăn chay thiếu trí tuệ, thiếu
sức khỏe là hoàn toàn không phù hợp. Bởi Mahatma Gandhi cũng là con người bình
thường, ông gia nhập hội ăn chay từ khi còn trẻ, khoảng thời gian còn lại ông
sống cho quê hương đất nước, dù bận trăm công ngàn việc, dù sức khỏe hao mòn,
ông vẫn nhất quyết không dùng thức ăn khác, thậm chí cả sữa trâu, bò… và cho
đến lúc ngã quỵ vì thương vợ, thương dân tộc, nghe theo lời bác sỹ ông
mới miễn cưỡng dùng chút sữa dê.
Như
vậy vấn đề ăn uống phải cần được hiểu một cách rõ ràng, những quan niệm lạc
hậu, phản khoa học phải được loại trừ, chúng ta ăn uống những thứ thanh tịnh,
sạch sẽ là để bảo vệ sức khỏe cho mình, “liều thuốc hay nhất chống lại mọi bệnh
tật là nguồn thức ăn tinh khiết”. Nói thế không có nghĩa là chúng ta ăn uống vô
độ, rượu bia thâu đêm suốt sáng, vì đấy chính là con đường ngắn nhất để góp phần
làm giảm sức khỏe và cách tốt nhất để rút ngắn đời sống của chúng ta.
Tại
Trung Quốc, nơi được mệnh danh là thiên đường của ăn uống, các món ăn với cách
trang trí hết sức điêu luyện đã làm ngất ngây bao thực khách. Thế nhưng trong
thế kỷ này, Trung Quốc lại phát minh ra một món ăn, cũng là một món thuốc đại
bổ có tên là “thuốc bắc hầm thai nhi”.
Không biết đã có ai dùng chưa, nhưng trên
thực tế khi nhìn hình ảnh một vị bác sỹ (mặc áo blouse trắng) đứng trước một tô
thịt “thai nhi hầm thuốc bắc” thì chỉ có kinh tỡm và không còn cảm giác muốn
ăn.
Tôi không biết người chế biến ra món ăn này có phải là con người không hay
là một con quái vật đội lốt người. Rồi đây họ sẽ còn phát minh ra bao nhiêu món
quái lạ như thế nữa, và còn bao nhiêu thai nhi chưa chào đời đã bị đem “hầm”
thuốc? Sát hại những loài gia súc gia cầm được coi là hành động dã man, và nay
hành động lấy thai nhi làm thuốc thì mức độ dã man là như thế nào?
Ai trong
chúng ta dám ăn món ăn này không? Hành động mất nhân tính đó đáng bị lên án, và
quả báo sẽ không thể nào lường trước được. Trong Phật giáo hành động sát sinh
được cấu thành thông qua bốn giai đoạn: có đối tượng giết, tâm muốn giết, hành
động giết và kết thúc hành động giết trong sự thỏa mãn thích thú.
Ví dụ như con
cừu là đối tượng bị giết; tâm muốn giết gồm có: ba độc (tham, sân, si), động cơ
thôi thúc giết, và sự phân biệt; tiến hành giết thì có nhiều hình thức: đập
đầu, bắn tên, thọc huyết, cắt cổ, đổ nước sôi, quay nướng… và cuối cùng là thỏa
mãn, thích thú vì hành động giết đó.
Khi nghiệp sát được cấu thành thì quả báo
tương ứng sẽ xảy ra, mà trong hiện đời chúng ta cũng ít nhiều đã từng được
chứng kiến nhiều người trước khi chết họ tru tréo, trợn mắt, miệng mồm chảy nước
dãi không khác gì một con chó.
Lại có người tuy chưa chết mà bị nhiều chứng
bệnh không phương cứu chữa như toàn thân nổi vẩy sần sùi như vảy rắn, toàn thân
nổi u nhọt như da cóc, v.v... Những gì thấy ngày hôm nay chúng ta phải sinh tâm
sợ hãi và nguyện sống lành mạnh, không sát hại chúng sinh chỉ vì thỏa mãn lòng
tham ăn của mình.
Tóm
lại, ăn uống có tiêu chuẩn là để nâng cao sức khỏe, sống có ích cho bản thân,
gia đình và xã hội. Chọn thức ăn từ nguồn gốc thiên nhiên, thông qua bàn tay
chế biến an toàn chắc chắn chúng ta sẽ có được những bữa cơm gia đình an toàn,
ngon miệng. Ngày nay, các món chay cũng vô cùng phong phú như: rong biển cuộn
xôi, lẩu rau ngũ sắc, v.v…
Điều cần thiết là chúng ta nên chọn những tên gọi
thích hợp để đặt cho các món ăn chay, không nên mượn danh từ của các món ăn mặn
để gán đặt vào. Làm thế hóa ra chúng ta ăn chay mà luôn nghĩ đến ăn mặn.
Có thể
chọn lọc và tìm hiểu để đưa một số danh từ Phật học đặt tên cho các món ăn thuần
tịnh này như: bát chánh đạo, tứ chánh cần, tứ như ý túc… thông qua đó chúng ta
cũng góp phần đưa Phật học gần với đời sống thực tế hơn. Tránh ăn thịt, không
sát sinh là góp phần cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường sống, và cũng là
bước đầu tiên của tiến trình tăng trưởng thiện tâm, trau dồi thiện nghiệp.
Nguyện cho mọi người luôn được an lành, sức khỏe dồi dào, thiện căn tăng trưởng.
Nguồn tin: Tập san Pháp luân
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự