Mặc
dù nhu cầu giáo dục ở các trường đại học Phật giáo ở Thái Lan rất cao, chi
nhánh của các trường đại học cũng phân bố khắp cả nước, và bất kể là nhiều
trường trong số các đại học Phật giáo này có liên kết với các trường Phật giáo
nước ngoài. Sự giảm sút về số lượng chư Tăng học ở cấp trung học trở lên đã trở
thành vấn đề đáng lo ngại cho tất cả các bộ phận có chức năng, bao gồm tổ
chức Tăng đoàn, các bộ của chính phủ và các tổ chức tư nhân. Tôi tin rằng đây
cũng là trường hợp của các nước chính thức được xem là cái nôi của truyền thống
và giáo dục Phật giáo.
Nhiệm vụ của một tu sĩ Phật Giáo
Theo
truyền thống, học tập, rèn luyện, nghiên cứu, và giáo dục hợp thành nòng cốt
của Phật giáo. Chính việc nỗ lực tìm hiểu Phật giáo là một hình thức giáo dục.
Hơn nữa, thuật ngữ ‘Buddha’ không chỉ có nghĩa là người có trí tuệ mà còn có
nghĩa là người đem trí tuệ của mình truyền trao cho người khác. Vì vậy, Phật
giáo là một tôn giáo của những người hết lòng học hỏi những lời Đức Phật dạy,
tự giáo dục mình và đem những gì mình đạt được truyền trao cho người khác. Phật
Giáo và giáo dục luôn luôn đồng hành với nhau và gần như là một.
Theo
Đức Phật, có hai trách nhiệm hoặc bổn phận chính mà một người tu sĩ phải gánh
vác một khi vị đó đạt được trình độ tâm linh cao và được quần chúng tin cậy có
thể mang lại hạnh phúc và lợi ích cho đời. Hai nhiệm vụ này được giải thích như
sau:
Thứ
nhất, một vị tu sĩ cần phải học, phải có trách nhiệm học tất cả những lời dạy
của Đức Phật. Một vị tu sĩ phải học kinh điển trong Tam tạng mà ngày nay chúng
ta gọi là Tạng kinh Pāli. Mỗi vị đều có thể tự do lựa chọn, tùy vào khả năng
của mình mà có thể học một tạng, hai tạng, hay cả ba tạng kinh điển nếu vị ấy
muốn. Một khi nắm vững và có khả năng ghi nhớ giáo pháp trong kinh điển, vị ấy
nên thuyết giảng kinh pháp cho người khác. Nhiệm vụ này gọi là ganthadhura, tức
là nhiệm vụ học; nhiệm vụ này thích hợp với tất cả, chư Tăng cũng như tập sự,
dù là người cư trú ở thành thị hay núi rừng, là người mới nhập đạo, hay là vị sư
mới thọ giới hoặc đã thọ giới pháp trong thời gian lâu. Trong lịch sử các vị đệ
tử lớn của Đức Phật, ngài La-hầu-la (Rahula) được biết đến là một vị đệ tử
chuyên tâm học hành nhất và được Đức Phật ngợi khen là một trong những vị có sở
học uyên thâm nhất thời bấy giờ.
Để
thực hiện mục đích học này, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của một vị
tu sĩ, ít ra là trong các nước theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, là học
Pāli. Pāli là ngôn ngữ gốc Đức Phật dùng để thuyết pháp, và đây là ngôn ngữ người
dân miền Trung Ấn sử dụng trong thời Đức Phật. Muốn hiểu được thật sự Đức Phật
đã dạy những gì, học Pāli là một điều kiện tất yếu, vì với ngôn ngữ Pāli, chúng
ta có thể đọc được những lời kinh điển gốc bằng chính ngôn ngữ Đức Phật nói ra
thời ấy. Pāli là thánh ngữ, giáo pháp nguyên thuỷ của Đức Phật và một số tác
phẩm Kinh điển khác, cả cho xuất gia và tại gia, được lưu giữ bằng ngôn ngữ
này. Ở Thái Lan, cả hai hệ thống giáo dục truyền thống và giáo dục học đường đều
chia việc học ra thành hai nhóm: học pháp (có ba cấp độ từ lớp I đến III) và
học Pāli (có 9 cấp độ từ lớp I, II đến IX). Có hai trường đại học do Tăng đoàn
điều hành, đó là đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya, thuộc trường phái
Mahānikāya, và đại học Phật giáo Mahamakut thuộc trường phái Dhammayut. Cả hai
trường đều có chương trình học chính thức cho chư Tăng, tập sự cư sĩ và cả hai
đều được Hội đồng Tăng già tối cao cũng như chính quyền hoàng gia Thái hỗ trợ.
Thứ
hai, một tu sĩ phải thực hành thiền định. Chư Tăng và Sa-di phải thức dậy sớm,
tụng kinh hay cầu nguyện buổi sáng trước khi đi trì bình khất thực. Buổi chiều
tối, thời khóa cũng tương tự như vậy. Sau khóa lễ tụng kinh buổi tối, là giờ
trau dồi pháp hành với mục đích phát triển tuệ quán về ba đặc tính phổ quát, đó
là vô thường, khổ và vô ngã. Yêu cầu này chính là thực hành thiền quán, một
pháp tu thích hợp cho các vị tu sĩ theo truyền thống tu ở núi rừng và những vị
lớn tuổi mới xuất gia, vì với pháp tu thiền định, chư vị này dễ hành trì lời
Phật dạy hơn là cố gắng ghi nhớ đọc tụng và học thuộc lòng Kinh điển. Lý tưởng
nhất là tu sĩ thực hiện cả hai nhiệm vụ học và thiền định song song với nhau; được
như vậy thì Phật Giáo mới thịnh hành trong tương lai. Tuy nhiên, thỉnh thoảng
một số tu sĩ, một khi chú tâm vào việc học, phàn nàn rằng họ không còn thời
gian để thực hành thiền định và ngược lại, một số vị thực hành thiền định nhiều
quá cũng than rằng họ không còn thời gian để học Tam tạng kinh điển.
Học Phật theo truyền thống
Trong
kinh điển Phật giáo, sikkhā là thuật ngữ Pāli chỉ cho khái niệm ‘học’. Sikkhā
chỉ cho những gì chúng ta cần học thuộc và tiếp đó là áp dụng thực hành. Có ba
phương diện cần phải trau giồi: thân, khẩu và ý nhằm có được trí tuệ và dần dần
chứng đạt Niết Bàn. Ba phương diện trau giồi này gọi là tisikkhā, ba pháp học
theo truyền thống Phật Giáo.
Phương
diện thứ nhất là trau giồi đạo đức, giới hạnh của người xuất gia, sử dụng lời
nói và hành động một cách chuẩn mực và đứng đắn, tự điều chỉnh hành vi của mình
phù hợp với mô phạm xã hội. Đạo đức là phương diện thực hành bên ngoài, hướng
đến một cuộc sống an lành với những người xung quanh và đem lại trật tự cho xã
hội.
Phương
diện thứ hai là tu tập thiền định và phát triển định lực cao hơn. Đó là thực
hành thiền, huấn luyện tâm để tâm ý được thuần thục, như có khả năng tập trung
cao độ. Định là phương diện tu tập bên trong. Như Đức Phật dạy, người nào tự
huấn luyện được mình là người tuyệt vời nhất. Định giúp cho thân thể tráng
kiện, tăng trưởng trí nhớ và có khả năng làm việc hiệu quả để đạt đến thành công.
Phương
diện thứ ba là trau giồi trí tuệ, phát triển trí tuệ đến mức cao hơn và nỗ lực
để đạt được trí tuệ cao nhất. Chỉ có những người nào có được trí và tuệ viên
mãn mới có thể vượt qua khổ đau. Người có trí tuệ sẽ hiểu được bản chất như
thật của các pháp và không còn tâm chấp trước. Các vị ấy sẽ thấu hiểu được ba
đặc tính vô thường, khổ và vô ngã một cách rốt ráo.
Sự phát triển việc học Pāli ở Thái Lan
Từ
khi ngôn ngữ Pāli mới được giới thiệu và được học bằng cách đọc thuộc lòng
thông qua đọc tụng hoặc bằng văn bản viết, nó đã đóng một vai trò vô cùng quan
trọng ở Thái Lan. Người ta học Pāli sớm nhất là từ thời Sukhothai, khi Phật
Giáo du nhập qua Nakhon Si Thammarat, vào phía nam vương quốc này. Theo các
nguồn truyền thống, tiếng Pāli đầu tiên được truyền vào Thái Lan do một nhóm tu
sĩ người Tích Lan đến truyền bá giáo lý cao siêu của Đức Phật trên đất nước
này. Truyền thống của Thái Lan cũng tin rằng người nào học được ngôn ngữ Pāli
sẽ là người có khả năng giữ gìn kho tàng giáo lý của Đức Phật trong hiện tại
cũng như tương lai. Từ thời vua Rāma thứ V, tập sự nào dưới 20 tuổi mà có thể
đậu kỳ thi Pāli IX sẽ vinh dự được nhà vua bảo trợ cho thọ giới trong tu viện
hoàng gia.
Những đổi thay trong giáo dục Thái Lan
Thái
Lan là một đất nước Phật Giáo được mệnh danh là “đất của y vàng”. Hầu hết dân
chúng Thái Lan, khoảng 94 %, tự coi mình là Phật tử. Trên khắp đất nước, có
35.237 ngôi chùa với 328.244 Tăng sĩ và sa di đang tu học. Mỗi một người công
dân nam Thái Lan, ít nhất một lần trong đời, có một thời gian xuất gia làm tu
sĩ ở tu viện, thường là khoảng ba tháng. Cho đến thời gian gần đây, tu viện
luôn là trung tâm giáo dục và là nơi cho các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, tình
hình này bây giờ đã thay đổi đáng kể, do quá trình thành thị hóa và hiện đại
hóa, đặc biệt là ảnh hưởng từ phương Tây khi kỹ thuật tiên tiến và khoa học
hiện đại được đưa vào Thái Lan. Nhiều nhà phê bình cho rằng thay đổi là điều
tất yếu và truyền thống Phật Giáo hiện tại không thể nào chống chọi nổi với
những thử thách mà Phật Giáo đang phải đối mặt hiện nay. Một ví dụ điển hình là,
Phật Giáo dạy con người tránh tham lam, trong khi đó, chính lòng tham ngự trị
ngay trong lòng của thế giới tư bản và hiện đại.
Lầu đài và tu viện
Trước
đây, thanh niên trẻ ít có cơ hội để học lên bậc đại học, đặc biệt là những
người sống ở các miền quê, vì chỉ có cung điện hoàng gia và tu viện ở thành phố
đào tạo lên đến bậc đại học. Những cung điện hoàng gia nhận và đào tạo cả nam
lẫn nữ và những ai được sự giáo dục từ hệ thống này đều có một tương lai đầy
hứa hẹn. Trong khi đó, giáo dục tu viện chỉ dành cho người nam và hầu hết người
học, nếu không nói là tất cả, đều là chư Tăng và tập sự xuất gia thọ giới để
được học ở hệ thống trường này. Không thiếu những người còn trẻ, năng nổ nắm
lấy cơ hội vào tu viện để được học nâng cao. Bây giờ, tình hình đã thay đổi
nhiều, từ khi chính quyền thiết lập hệ thống giáo dục phổ cập và miễn phí cho
trẻ đến tuổi 12. Do đó, trẻ em ngày nay thích học ở hệ thống giáo dục đời thường
do nhà nước hỗ trợ hơn là giáo dục tu viện.
Đây
chỉ là biểu hiện nhỏ của vấn đề còn tiềm ẩn và trầm trọng hơn.
Hiện
nay, không có mấy ai tìm đến tu viện để thọ giới xuất gia nữa. Đây chỉ là một
biểu hiện nhỏ của vấn đề tiềm ẩn trầm trọng hơn với mức độ ngày càng tăng mà
Phật Giáo Thái Lan cũng như các nước khác đang gặp phải. Nếu hiện tượng
này tiếp tục cho đến thế kỷ sau, Phật Giáo chắc hẳn phải đương đầu một thử
thách to lớn về sự giảm đi nhanh chóng số lượng tu sĩ. Một vấn đề khác nữa là,
ngày nay, những người nào đến tu viện thọ giới xuất gia, họ cũng tu thời gian
ngắn hơn nhiều so với trước. Theo truyền thống, những người mới thọ giới, nếu
các tập sự này quyết định chỉ xuất gia gieo duyên ở tu viện một thời gian ngắn,
sẽ duy trì hình thức xuất gia này trong ba tháng. Thường thì những người này gia
nhập Tăng đoàn vào đầu mùa An cư và xả y vào ngày Tự tứ cuối mùa An cư năm ấy,
ngày mà chư Tăng được cúng dường y mới.
Ngày
nay, những thanh niên trẻ, được sự cho phép của các tổ chức nhà nước hoặc tư
nhân, xuất gia thọ giới chỉ trong thời gian ngắn hơn nữa, rồi sau đó xả y hoàn
tục sau một thời gian ngắn ngủi ở tu viện. Nhiều người xuất gia chỉ trong 15
ngày, quá ít so với truyền thống. Đây là một dấu hiệu cho thấy sự bất ổn ngày
càng tăng của Tăng đoàn, đặc biệt là không có một hệ thống quy chế luật lệ,
không có một chương trình học có thể thu hút chư Tăng ở lại tu viện lâu hơn cho
đến khi hoàn thành chương trình học.
Kết luận
Chư
Tăng, người tiếp nối giáo pháp của Đức Phật, đóng vai trò rất quan trọng trong
việc duy trì và tiếp tục thắp sáng ngọn đèn chánh pháp. Một nghiên cứu gần đây
của trung tâm nghiên cứu nhân loại học Sirindhorn ở Bangkok về số lượng và chất
lượng của Tăng đoàn Thái Lan, đưa ra kết luận rằng thành viên trong Tăng đoàn
ngày càng giảm đi và xu hướng này tiếp tục diễn ra từng ngày.
Nghiên
cứu này đưa ra thông tin rằng vào năm 1960, tỉ lệ chư Tăng và tập sự đối với
dân số toàn quốc là 200 ngàn / 28 triệu. Ngày nay, chỉ có 300 ngàn chư Tăng và
tập sự trong một cộng đồng có dân số 64 triệu người. Hơn nữa, số chư Tăng và
tập sự này phần lớn cư ngụ tại thành phố và thị trấn, nơi họ có thể được học
hành, trong khi đó, nhìn chung, không có nhiều hơn 5 người xuất gia trong một
làng và số lượng ít ỏi này không đáp ứng nổi nhu cầu của Phật tử địa phương.
Trước
đây, chư Tăng rất được cư sĩ Phật tử tôn kính và ngưỡng mộ, đặc biệt những vị
nào có thời gian tu tập lâu năm, sẽ thâm nhập giáo điển sâu sắc hơn thì sẽ có
khả năng giao tiếp với xã hội rộng hơn. Thế nhưng ngày nay, khi nhiều người gia
nhập Tăng đoàn làm tập sự trong thời gian quá ngắn như vậy, có một mối quan
ngại rằng, rồi đây, ai sẽ là người thừa kế Giáo pháp của Đức Phật? Mặc dù đã có
một vài nỗ lực để chỉnh đốn tình trạng này, như là chương trình thành lập mỗi
một làng xã có một người thọ pháp, thế nhưng chương trình này cũng không phát
triển được như mong đợi ban đầu.
Thống kê:
Tu
viện tính đến ngày 31/12/2007:
Tổng
số tu viện trên toàn quốc: 35.271
Trường
phái Mahānikāya: 32.979
Trường
phái Dhammayut: 2.265
Trường
phái Chinese Nikāya: 13
Trường
phái Anan Nikāya: 14
Tổng số tu viện Hoàng gia ủng hộ: 281
Trường
phái Mahānikāya: 225
Trường
phái Dhammayut: 56
Tu
viện bình thường tính đến ngày 31/12/2007
Tổng
số tu viện trên toàn quốc: 34.990
Trường
phái Mahānikāya: 32.754
Trường
phái Dhammayut: 2209
Trường
phái Chinese Nikāya: 13
Trường
phái Anan Nikāya: 14
Số lượng chư Tăng và sa-di tính đến ngày
31/12/2007
Tổng
số chư Tăng và tập sự: 328.244
Tổng
số trên toàn quốc: 258.163
Trường
phái Mahānikāya: 230.910
Trường
phái Dhammayut: 27.253
Tập
sự: 70.081
Trường
phái Mahānikāya: 59.956
Trường
phái Dhammayut: 10.125
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự