Thái
tử sinh làm con một vị vua Ấn Ðộ nơi vùng biên giới xứ
Thái
tử đã trải qua những năm đầu của thời kỳ thơ ấu trong an lạc, xa hoa và được
giáo dục rất tốt. Cha Ngài, vua Tịnh Phạn, cố hết sức không để cho con mình
thấy một điều gì xấu xa và khó chịu trong cuộc đời này. Tuy nhiên năm 29 (hai
mươi chín) tuổi, khi đi dạo trong vườn thượng uyển, thái tử đã chứng kiến trên
đường đi những cảnh người già đau, chết và Ngài nhận chân ra rằng tất cả mọi
người không ngoại lệ ai đều phải chịu sinh, già, bệnh, chết, và rằng mọi lạc
thú thế gian chỉ là khởi đầu của khổ đau. Hiểu rõ nỗi khổ đau chung của nhân
thế như vậy, Ngài khát khao muốn tìm cho ra một phương thuốc chữa trị cho căn
bệnh thế gian này.
Vào
cái đêm sau khi đi dạo chơi vườn Thượng Uyển trở về, Thái tử suy nghĩ rằng nếu
như mình tại vị như một ông vua, mình sẽ phải phung phí thời giờ quý báu của
mình để lo toan quốc sự và để duy trì vương vị. Từ đó, không thể tìm kiếm được
phương thuốc chữa trị cho nhân gian, cũng như không thể đạt đến hạnh phúc cao
tột của Niết Bàn - sự diệt tận mọi khổ đau.
Từ
ấy, Ngài từ bỏ vương quốc và cắt đứt mọi ràng buộc thế gian để sống cuộc đời
của một nhà tu khổ hạnh, lang thang làm kẻ đi tìm chân an lạc cho đời. Ngài đã
đến học đạo với nhiều bậc thầy nổi tiếng thời đó, thế nhưng không ai có đủ khả
năng thoả mãn cho những gì Ngài đang nhiệt tâm tìm kiếm.
Ngài
đã thực hành một cách kiên trì mọi hình thức khổ hạnh nghiêm khắc nhất và thực
hiện một nỗ lực phi thường trong suốt 6 năm trường. Cuối cùng, tấm thân thanh
nhã của Ngài teo rút lại hầu như chỉ còn là bộ xương; càng hành xác bao nhiêu
Ngài càng cảm thấy xa rời cứu cánh giải thoát bấy nhiêu. Nhận ra sự vô dụng
hoàn toàn của việc hành hạ thân xác theo lối khổ hạnh, cuối cùng Ngài quyết
định đi theo một lộ trình tu tập khác, rời xa hai cực đoan của khổ hạnh và lợi
dưỡng.
Lộ
trình mới mà Ngài khám phá là Trung Ðạo (Bát Chính Ðạo), đạo lộ mà sau này đã
trở thành một nét đặc thù của Phật pháp. Nhờ hành theo Trung Ðạo này, trí tuệ
của Ngài phát triển tột độ và Ngài khám phá ra Chân Lý Tứ Ðế, liễu tri các pháp
như chúng thực sự là, và cuối cùng đạt đến Toàn Giác.
Như
vậy, là một con người, thái tử, bằng chính ý chí, nỗ lực tinh tấn, trí tuệ và
từ bi của mình, đã đạt đến Phật quả - trạng thái tuyệt đỉnh của sự hoàn thiện -
và Ngài đã vén lên cho nhân loại thấy con đường thẳng duy nhất dẫn đến trạng
thái giác ngộ đó. Một nét đặc thù của đạo Phật nữa là bất cứ ai cũng có thể
vươn đến ngay cả trạng thái mà chính Ðức Phật đã đắc nếu như họ thực hiện những
nỗ lực cần thiết. Ðó chính là một loại tiến trình tiến hoá và được thành tựu
bằng nỗ lực cá nhân của con người.
Ðức
Phật nhấn mạnh đến giá trị nhân bản và Ngài thường dạy cho mọi người thấy cái
quý được làm người. Ngài đã vẽ cho ta bức tranh toàn hảo về một con người đang
cố gắng và đang phấn đấu từ kiếp này sang kiếp khác để tầm cầu sự hoàn thiện về
đạo đức hay các pháp Ba La Mật - vị Bồ Tát - một người đang cố gắng để thành
Phật.
Khi
còn là một Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp luân hồi Ngài đã chịu đựng mọi đau
khổ, đã hy sinh tất cả để chu toàn mọi pháp độ (Ba la mật) sao cho một ngày xa
xôi nào đó Ngài có thể thành tựu cứu cánh tối hậu của mình, mục tiêu chiến
thắng không chỉ cho riêng mình mà cho tất cả chúng sinh, giải thoát khỏi những
gánh nặng của sinh, lão, bệnh, tử.
Chính
Ðức Phật đã kể cho chúng ta nghe về nguồn gốc của Ngài và Ngài đã khởi đầu với
một quyết tâm tha thiết và không gì lay chuyển nổi như thế nào. Ngài còn kể cho
chúng ta biết về sự hoàn thiện dần từng bước của tiến trình thực hiện nguyện
vọng tha thiết đó, và cuối cùng Ngài đã đạt đến giác ngộ viên mãn như thế nào.
Thay
vì làm nản lòng những người theo mình để giữ độc quyền trạng thái tối tôn (Phật
quả) cho riêng mình, Ðức Phật đã khuyến khích và thúc đẩy mọi người đi theo tấm
gương cao quý của Ngài.
Ðạo
Phật có phải là một tôn giáo không? Ðạo Phật không phải là một tôn giáo theo
cái nghĩa mà từ này thường được hiểu, bởi vì đạo Phật không phải là một hệ
thống đức tin và thờ phượng. Mặc dù chúng ta có thể quy y nơi Ðức Phật, như
trong các nghi lễ giản dị, tự thân người Phật tử nguyện sẽ sống một cuộc sống
theo gương Ngài bằng Tam Quy, vấn đề ở đây không phải là bằng niềm tin mù quáng
nơi Tam Bảo mà Ngài có thể cứu độ chúng ta.
Ở đây,
chỉ có đức tin suông sẽ bị loại trừ và được thay thế bằng niềm tín (hay Tín)
dựa căn bản trên kiến thức hay sự hiểu biết về sự thực (chân lý). Một Phật tử
có niềm tin nơi Ðức Phật sẽ theo những lời chỉ dẫn của Ngài để đạt đến giải
thoát. Chúng ta thờ Phật để tỏ lòng kính trọng đối với Ngài - bậc ân nhân đã
chỉ cho ta con đường giải thoát, chúng ta hoàn toàn không phải là những người
sùng bái các ngẫu tượng, dù bằng bất cứ ý nghĩa nào; hình tượng của Ngài nhắc
cho chúng ta nhớ đến nhân cách toàn vẹn của một bậc thầy, người mà phát xuất từ
lòng bi mẫn đối với chúng ta, đã để lại những lời dạy quý giá vì lợi ích cho chúng
sinh.
Chúng
ta không đi tìm sự giải thoát từ nơi hình tượng của Ðức Phật; làm thế nào một
bức tượng lại có thể cứu độ cho chúng ta được chứ? "Hãy tự mình thực hiện
sự giải thoát; chư Phật chỉ là bậc đạo sư", Ðức Phật đã dạy như vậy. Mỗi
người là nơi nương tựa cho chính mình và không ai có thể trông đợi để được
người khác cứu độ cho cả.
Ðức
Phật có thể chỉ đường và nói cho chúng ta biết rõ những khó khăn cũng như những
cái đẹp của con đường, những điều chắc chắn chúng ta sẽ gặp khi chúng ta bước
lên đó, Ngài không thể bước thế cho chúng ta mà tự thân chúng ta phải bước lấy.
Ðể giúp chúng ta bước lên đạo lộ đi đến mục tiêu giải thoát này, Ðức Phật đã vẽ
lại những pháp hành cần phải được sống theo và chỉ bằng cách sống hợp theo những
nguyên tắc của giáo pháp người ta mới có thể thấu hiểu được thực nghĩa của nó.
Lý
tưởng vĩ đại nhất là Niết Bàn, sự giải thoát cuối cùng khỏi khổ đau. Ðây là một
trạng thái được đạt đến bằng pháp hành dẫn tới sự giác ngộ - tự ngộ. Lối sống
của Ðức Phật là lối sống trung đạo, không lạc quan cũng chẳng bi quan.
Lạc
quan có khuynh hướng đánh giá quá cao điều kiện của cuộc sống, trong khi đó bi
quan lại đánh giá nó quá thấp, giáo lý về "con đường" hay "trung
đạo" chỉ có thể nắm bắt được bởi một người đã hiểu rõ tính tương quan và
tương duyên của hai cực đoan đó. Tất cả các cực đoan đều sinh ra những đối
nghịch của nó và cả hai đều bất lợi như nhau. Ðối với mọi người thì lối sống
trung đạo trong thế gian này là lối sống tốt đẹp và an toàn nhất.
Phật
giáo có ba phương diện: học, hành và chứng đắc. Phương diện học hay còn gọi là
pháp học được lưu giữ trong kinh điển Tam Tạng. Tam Tạng Kinh (Tipitaka) chứa
đựng những lời dạy của Ðức Phật và được các nhà dịch thuật anh ngữ đánh giá là
lớn gấp 11 lần thánh kinh Thiên Chúa. Bài kệ sau đây có thể xem là cô đọng của
tất cả những gì Ðức Phật đã dạy:
"Không
làm mọi điều ác
Luôn làm các việc thiện
Giữ cho tâm trong sạch
Ðó lời chư Phật dạy".
Bài
kệ này thể hiện rõ nét ba chặng đường tu tập (Giới - Ðịnh - Tuệ) trên đạo lộ
giải thoát. Giới điều hoà lời nói và hành động; Ðịnh kiểm soát tâm; nhưng chính
Trí Tuệ, chặng cuối cùng của đạo lộ, mới có thể giúp hành giả trừ diệt hoàn
toàn những tham dục đã từng gây bao xáo trộn trong cuộc sống của hành giả.
SỨC MẠNH CỦA TRÍ TUỆ
Trí
tuệ là năng lực để thấy được các pháp thực sự là gì (thực tính của các pháp) và
làm thế nào để hành xử một cách đúng đắn khi các vấn đề của cuộc sống xảy đến
trước chúng ta. Hạt giống trí tuệ ngủ ngẫm trong mỗi chúng ta, và khi tâm hồn
ta nồng ấm và dịu dàng với lòng từ bi, những hạt giống trí tuệ này sẽ phát
triển thành những năng lực của nó.
Khi
một người lắng dịu lại những dòng bộc lưu của tham, sân, si, họ trở nên một
nguời có lương tâm, đầy lòng trắc ẩn, và họ biết lo lắng cho sự an vui hạnh
phúc của tất cả chúng sinh.
Người
ấy tránh không trộm cắp và biết cư xử chính trực thanh liêm; người ấy tránh xa
sự tà dâm và sống trinh bạch thuần khiết; người ấy tránh xa việc nói dối; điều
gì người ấy nghe ở nơi này không đem nói ở nơi khác để gây sự bất hoà chia rẽ;
người ấy biết kết hợp lại những người chia rẽ và khuyến khích những người biết
sống đoàn kết; người ấy tránh xa lời nói hung ác, chỉ nói những lời dịu dàng,
mềm mỏng, dễ nghe và truyền cảm; người ấy tránh không nói lời vô ích và chỉ nói
những điều hữu ích, đúng thời và hợp với sự kiện.
Chính
khi tâm người ấy thanh tịnh và cõi lòng người ấy lắng dịu nhờ được trang bị với
giới hạnh như vậy là lúc mà hạt giống thánh thiện - trí tuệ phát triển. Kiến
thức hiểu biết về những đặc tính của cây kim từ tính (trong chiếc la bàn) có
thể giúp người đi biển thấy đúng hướng trên đại dương mênh mông trong những đêm
tối tăm nhất, khi không một vì sao nào được thấy.
Cũng như vậy, trí tuệ có thể giúp cho người ta thấy các pháp như chúng thực sự là, và nhận ra con đường chân chính đi đến an lạc. Chính trí tuệ này sẽ giúp chúng ta hội nhập với mọi chúng sinh trong cùng một đại dương mênh mang của từ ái và yêu thương.
Pháp Thông (dịch)
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự