Hoành
tráng dấu tích xưa
Căn
cứ vào những thư tịch cổ ghi lại: “chùa Dạm được vua Lý Nhân Tông (1072-1127)
cho xây dựng vào năm Quảng Hựu thứ 2 (tức năm Kỷ Tị 1086). Chùa xây trong 9
năm, đến năm 1095 mới xong. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông lại tiếp tục cho xây
thêm ba tòa tháp bằng đá nữa ở chùa”. Trải qua hơn 9 thế kỷ, chùa được gọi
với nhiều tên khác nhau như: chùa Đại Lãm, chùa Tấm Cám (vì ở đây có giếng Tấm
Cám)... Tuy nhiên, tên chùa Dạm vẫn là cách gọi phổ thông nhất.
Theo
sử sách ghi lại, chùa Dạm xưa có 99 gian vô cùng nguy nga, bề thế được xây tứ
cấp dựa hẳn vào sườn núi. Chiều dài nền chùa là 120m, rộng 70m (hơn hẳn
chùa Phật Tích dài 100 và rộng 60m).Tổng cộng diện tích ngôi chùa lên đến 8.400m2.
Bốn lớp nền (tứ cấp) được bó ghép bằng đá tảng (mỗi viên có kích thước 50x60cm), được
đặt choãi chân, chếch khoảng 70 độ và cao 5-6m. Đường xuống mỗi nền cấp của
chùa là 25 bậc đá.
Chính
sự bề thế của hình hài ngôi chùa lúc ban đầu mà dân gian lưu truyền một câu ca:
Mười năm trăng náu, mười sáu trăng treo, mười bảy phẩy giường chiếu, mười tám
đóng cửa chùa Dạm. Có nghĩa cứ sau ngày rằm người ta đóng cửa chùa, bắt đầu từ
xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng hết tất cả các cửa.
Chùa
được đặt ở một vị trí có sự hội tụ đầy đủ huyết mạch linh khí theo thuyết phong
- thủy của phương Đông. Chùa Dạm cũng là nơi bắt nguồn của truyền thuyết Tấm
Cám, và cuối đời Nguyên Phi Ỷ Lan đã về ở ẩn tu hành tại đây.
Hoang
tàn trong cỏ ngày nay
Chùa
Dạm ngày nay đang phải chịu cảnh hoang tàn, đổ nát. Những bức tường đá, bậc đá
cổ kính, nguy nga xưa đã bị vùi trong đám cỏ dại xanh tốt. Theo chúng tôi được
biết, vào những năm 1946-1947 thực dân Pháp đã hành quân về đây và đóng bốt
trên ngọn núi này. Nhằm làm giặc Pháp không đạt được ý đồ, chính nhân dân địa
phương đã trực tiếp đốt phá chùa.
Đất
nước hòa bình bao năm qua, vậy mà chùa Dạm chưa một lần được tu bổ, sửa sang.
Điều xót xa nhất ở ngôi chùa Dạm hôm nay là hình ảnh một chiếc cột biểu
bằng đá nhám cao 5m không kể phần ngọn đã bị gãy nát.
Cột
biểu gồm hai phần, khối hộp vuông ở dưới gắn với lớp đá mạ và khối trụ tròn
ở trên có đường kính 1,5m. Tròn và vuông là biểu trưng cho trời và đất theo
quan niệm xưa. Còn xét tổng thể, cột đá này là biểu tượng của Linga (sinh thực
khí)... Đó được xem là công trình kiến trúc-điều khắc kỳ vĩ với nghệ thuật chạm
khắc đôi rồng đuôi giao nhau, thân uốn lượn mềm mại quanh cột, đầu rồng nghểnh
cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng đạt đến mức độ tinh xảo...
Nhưng
nay cột biển đá đã bị bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm, rêu xanh bám quanh cột. Trẻ
con địa phương chăn dắt trâu, bò thường lên nghịch ngợm, đập phá... Căn
nhà để người dân chỉnh trang lại quần áo trước khi vào điện lễ bái Phật thì
trông như một cái lán dựng tạm. Giếng Tấm Cám như một cái ao nhỏ để trẻ
con đùa nghịch, tắm rửa.
Nhiều
người cho biết dưới lòng đất chùa Dạm có rất nhiều báu vật quý như: bia, tượng
cổ… nhưng hiện vẫn chưa có một công trình khảo cổ nào được tiến hành để tìm lại
dấu tích xưa của ngôi chùa. Chùa Dạm đã được Nhà nước công nhận là di tích
lịch sử-văn hóa từ ngày 13-1-1964, và đến tận 25-4-1994 mới
được nhận bằng di tích nhưng hiện mọi người cũng không biết đến bao giờ
ngôi chùa mới được trùng tu, tôn tạo lại để lấy lại dù chỉ là một phần hình hài
xưa.
Dù
chùa hôm nay bị vùi trong màu xanh của cỏ cây, nhưng vẫn toát ra vẻ đẹp trầm
mặc, cổ kính, làm xót xa thêm cho những ai đã trót một lần đến tham quan, vãn
cảnh nơi này.
Nguồn tin: (Nguồn: Tuổi Trẻ)
Ý kiến bạn đọc
Chùa Thành Lạng Sơn Diên Khánh Tự